Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Hoả Lò, Cửa Sinh Tử Của Những Kiếp Buồn

Hoả Lò, Cửa Sinh Tử Của Những Kiếp Buồn PDF Print E-mail
Tác Giả: Trần Khải Thanh Thủy   
Chúa Nhật, 28 Tháng 12 Năm 2008 14:41

Nói đến Hoả lò - trại nhốt tù của thành phố Hà Nội ai cũng sợ, tuy từ năm 1994, sau khi chuyển về địa phận của xã Xuân Phương, Cầu Diễn- Hà Nội cách đó 14 km, nó đã được xây dựng lại từ đầu, theo kiến trúc nhà tù xã hội chủ nghĩa, thoát xác hoàn toàn với cấu trúc của nhà tù thực dân đế quốc cũ- một công trình kiên cố vào bậc nhất Đông Dương, đến con kiến cũng khó lòng qua nổi. Tường bằng đá, cốt thép cao 4 mét, dày nửa mét, được gia cố bởi hệ thống dây thép gai có dòng điện cao thế chạy qua, bốn góc là những tháp canh có khả năng quan sát nhất cử nhất động của toàn bộ trại giam. Dưới chân tường có đường nhỏ rộng 1,2 mét cho lính tuần tra. 9 khu giam giữ và từng khu biệt lập với nhau bằng những cửa sắt bịt tôn( khu làm việc cho lính canh, trại giam tù người Âu, trại giam tù nữ, khu nấu ăn, khu xà lim giam tử tù, hầm tối giam những người cứng đầu, phạm kỷ luật...v.v) Trên cơ sở đó bộ công an đổi thành ’trại giam số 1 Hà Nội’ trong tổng số 800 trại giam lớn nhỏ trong 64 tỉnh thành cả nước, song hai từ "Hoả lò" vẫn bám sâu vào trí não người dân Việt Nam và gây nên những ám ảnh kinh hoàng vì mức độ nuốt người khổng lồ và tính chất độc ác, dã man, hèn hạ của nó, còn gấp hàng chục lần so với trại Hoả Lò cũ.

I. Bàng hoàng nhớ lại:

Trên thực tế Nhà tù Hỏa Lò do Pháp xây có tên là Maison Centrale (Đề lao Trung ương), Vì xây trên đất của làng Phụ Khánh, tổng Vĩnh Xương huyện Thọ Xương cũ của Hà Nội- một làng nghề chuyên sản xuất đồ gốm, ngày đêm rực lửa lò nung chum, vại sành sứ, nên còn có cái tên là làng Hoả Lò, thôn Hỏa Lò. Khi người Pháp lấy đất của thôn xây dựng Maison Centrale , thì người Việt Nam quen gọi Đề lao là Hỏa Lò cũng như làng Phụ Khánh có thêm tên thứ 2 được gọi theo tên nghề của làng mình vậy

Thông thường các nhà tù thường biệt lập với khu dân cư, riêng Hỏa Lò nằm tại trung tâm thủ đô Hà Nội, thủ phủ của chính quyền thuộc địa. Bên cạnh là Tòa đại hình (nay là Tòa án nhân dân tối cao) và Sở Mật thám (nay là Công an thành phố Hà Nội - 87 Trần Hưng Đạo). Cả ba nhà-toà-sở - tạo thành thế chân kiềng, vững chãi. Từ bên trong khu vực hoả lò -rộng tới 12.908m2 có một đường hầm dẫn thẳng sang tầng hầm của tòa án. Tất cả những phạm nhân bị coi là nguy hiểm, khi đem ra xét xử đều phải đi theo con đường hầm này. Từ đó còn có hai đường hầm nữa thông ra ngoài, theo hai ngả khác nhau. Một chạy sang Sở Mật thám(Công an thành phố Hà Nội), còn đường kia là lối thoát bí mật chạy qua khu chợ 19/12 nay là "Chợ Âm Phủ" để nếu trại có bất ngờ bị tấn công thì các cai ngục, giám ngục, giám thị, lính gác v.v.. biết đường tẩu thoát

Theo tư liệu để lại tại chính khu vực được coi là di tích hoả lò, cũng như sách viết về nhà tù Hoả Lò bằng tiếng Việt, tiếng Anh bán rộng rãi trên thị trường thủ đô, trong những ngày mở cửa đón du khách vào tham quan thì riêng hệ thống cửa sắt, khóa được mang từ Pháp sang. Các phòng giam, phòng tối, xà lim đều chật chội, thiếu ánh sáng, không khí. Những tên cai ngục khét tiếng, có thâm niên cai quản nhà tù, sẵn sàng đàn áp, thậm chí cướp đi sinh mạng của tù nhân, như những tên: Griman(1930-1931). Betsơ (1940) Cagênô (1941-1942) Clêmăngti (1944, 1945). Miniconi(1947-1950). Tuxtu (1951- 1954) v.v

Sau 3 năm thiết kế và khởi công xây dựng, bắt đầu từ tháng 1-1899 nhà tù Hỏa Lò bắt đầu đảm nhận việc giam người. Theo thiết kế ban đầu được Toàn quyền Đông Dương Paul Dumer duyệt, Hoả Lò chỉ đủ giam 500 tù nhân, nhưng nó đã nhiều lần được mở rộng để có thêm chỗ giam, theo kiểu ngày một chật chội, đông tù hơn. Cụ thể năm 1913, cải tạo lần đầu, số lượng tù nhân đưa vào là 615 người. Bốn năm sau( 1917) đã lên thành 800 người, đặc biệt trong phong trào xô viết nghệ tĩnh (1930- 1931) lên hẳn 1.800 người. Thời điểm cao nhất là chiến dịch thu đông, biên giới 1950- 1953, Hỏa Lò phải đảm nhiệm việc giam cầm tới 2.000 người, trong khi sức chứa tối đa chỉ vẻn vẹn 1000 người... Nhiều thế hệ người Việt Nam đã bị giam cầm tại nhà tù này, trong đó có các nhà nho yêu nước như cụ Phan Bội Châu, Lương Văn Can, Dương Bá Trạc... Ghê rợn nhất trong các hiện vật để lại tại hoả lò lúc này là máy chém, chính nó đã được thực dân Pháp dùng lưu động trong suốt thời kỳ đô hộ 81 năm (1858-1954) đáng kể nhất, tháng 1-1930 được chính quyền thuộc địa Pháp vận chuyển lên Yên Bái để hành hình 13 chiến sĩ Việt Nam Quốc dân đảng bị bắt trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái, đứng đầu là Nguyễn Thái Học

Sau "giải phóng" thủ đô (1954) Hỏa Lò đặt dưới sự quản lý của chính quyền cộng sản, trở thành chiến tích ngoạn mục trong công cuộc kháng chiến cứu nước, đánh pháp, đuổi nhật. Sau đó trở thành nơi vinh dự nhốt người của chế độ Việt Nam dân chủ cộng hoà... Trong suốt 10 năm, từ 1964 đến 1973, Hỏa Lò còn được dùng để giam giữ phi công Mỹ bị bắn rơi trong cuộc chiến tranh leo thang miền Bắc, vì vậy còn được các tù binh Mỹ gọi là "khách sạn Hilton Hanoi". Đặc biệt là thời kỳ Mỹ tiến hành trận "Điện Biên phủ trên không (12-1972), hàng loạt các phi công Mỹ nhảy dù đã bị bắt sống quanh khu vực tây hồ, trong số này đáng kể là P.Peterson - sau này là Đại sứ Mỹ đầu tiên ở Việt Nam và John McCain, người giữ chức thượng nghị sỹ Mỹ nhiều năm và đã ra tranh cử tổng thống với Obama nhiệm kỳ 2009-2013

Cuối thập niên 80, đầu 90, sau khi nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định xoá bỏ chế độ quan liêu bao cấp thành cơ chế thị trường, không đóng cửa bảo nhau, đóng cửa để cùng ôm nhau giãy chết như toàn bộ hệ thống đông Âu xã hội chủ nghĩa nữa, mà mở cửa để rước đầu tư nước ngoài vào, kéo nền kinh tế Việt Nam do đảng lãnh đạo..đang mấp mé trên bờ vực phá sản đi lên theo con đường hoà nhập với thế giới. Khi đó toàn bộ khu vực Hoả lò đã bị bán lại cho Đài Loan trong thời hạn 50 năm, bất chấp mọi lời phản đối của các cựu tù nhân Hoả lò, đặc biệt là thế hệ thứ ba - những chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, du kích, biệt động nội thành, từ năm 1947 đến 10/10/1954, trong đó có nhiều người đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy đảng và nhà nước. Tuy nhiên vì sự phản kháng quyết liệt này mà Hoả Lò còn được giữ lại một góc nhỏ làm nơi tham quan cho du khách, 95% phần còn lại bị đập phá không thương tiếc để trở thành toà tháp cao ngất nghểu, gía trị nhất thủ đô, còn gọi là cao ốc thương mại Tháp Hà Nội.

Chính vì thế đầu năm 1994 đã có một cuộc di chuyển trại vĩ đại nhất trong lịch sử của ngành công an Việt Nam, vừa để Hà Nội có tháp cao tầng, sánh ngang với thế giới trong hội nhập toàn cầu, để lãnh đạo có tiền xây nhà cao cửa rộng, cũng là để giải thoát cả tù nhân lẫn cán bộ quản giáo ra khỏi khuôn viên ngột ngạt của trại tù cũ (nhiều phòng giam rộng chưa đầy 200m2 nhưng vào lúc "cao điểm phải giam tới 300 người. Tù nhân không đủ không khí để thở, có người đã chết ngạt). Một cuộc di chuyển diễn ra âm thầm trong bóng đêm, nhưng vô cùng sôi động, khẩn trương, để lại dư âm sâu đậm trong lòng người dân Hà Nội mỗi khi buộc phải nghe lại từ chính những người tù hoặc những người từng chứng kiến cuộc di chuyển " vĩ đại" này

II- Kế hoạch G93-công an đảng ta giỏi thật.

Theo ông Nguyễn Xuân Hoắc, thượng tá, cựu giám thị tiết lộ với cánh báo chí sau này: Số lượng phạm nhân tại Hoả lò cũ khi đó là 1.800 người. Trong đó 6 phạm nhân đang chờ ngày hành quyết, 35 phạm nhân có án từ 10 năm đến chung thân; 80 phạm nhân mang án từ 5 năm đến 9 năm; Số tù thường phạm chiếm tới 2/3 (1.205 người) còn lại là số phạm nhân bị giam cứu về các hành vi tội nghiêm trọng như kinh tế, chính trị (chiếm khoảng 40 người). Điều khá đặc biệt, trong 1800 tù nhân của trại chỉ vẻn vẹn 150 phụ nữ, chiếm tỷ lệ 1/12 so với nam, ít hơn hẳn so với thập kỷ 2000.. .

Đúng kế hoạch đã bàn định, trừ 6 phạm nhân bị tử hình sẽ được di chuyển trên xe con, có cán bộ "áp tải" ngay bên cạnh) còn các loại tù thường phạm khác (1.205 người) sẽ đi chung trên xe lớn, loại 45 chỗ ngồi. Tất nhiên, dưới con mắt nghiệp vụ của cục V26 - chuyên phụ trách về việc giam giữ tội phạm- tất cả phải được tính toán, phân loại, rà soát kỹ lưỡng đến từng chi tiết, con số, vụ án để phạm nhân trong cùng một vụ không được di chuyển trong một ô tô hoặc cùng một lần" xuất trại" để tránh hiện tượng thông đồng, phản cung, gây khó khăn trong việc cai quản của quản giáo, cũng như đi cung của các điều tra viên trực thuộc cơ quan an ninh sau này... Chính vì thế tổng số xe được huy động vào thành phương tiện vận chuyển là 40 xe, trong đó có 4 xe đặc chủng, 3 xe chuyên dùng và 20 xe chở khách, 8 xe tải, 5 xe chữa cháy..Trừ xe đặc chủng, xe chuyên dùng đã đảm bảo về mặt giám sát, giam giữ, tất cả các xe còn lại đều được gia cố thêm chấn song sắt ở cửa sổ xe, như một nhà tù di động, để phạm nhân dẫu có ý định vượt ngục, "nhảy ngựa" cũng đành bó tay

1800 phạm nhân bị cả trăm cai tù cùng gần 1000 công an các quận huyện áp giải, theo tỷ lệ "một địch, một ta". Cụ thể theo cái gọi là kế hoạch G93 ( dự thảo vào cuối năm 1993) 205 Công an quận Hoàn Kiếm phải huy động bố trí tại 38 điểm trên tuyến đường 14 km mà đoàn xe tù chạy qua,78 Công an quận Ba Đình bố trí ở 26 điểm, 121 Công an huyện Từ Liêm bố trí ở 25 điểm, đặc biệt là các ngã tư" nhạy cảm hay gây ùn tắc như Phan bội Châu, Điện Biên Phủ, hoặc trống trải tại khu vực ngoại thành Hà Nội như ngã tư Cầu Giấy, ngã ba Cầu Diễn v.v Ngoài ra còn 259 người thuộc trung đoàn Cảnh sát cơ động, 61 viên cảnh sát giao thông, 20 cảnh sát hình sự, 20 cảnh sát điều tra và các đơn vị khác như hậu cần, y tế, khoa học hình sự, thông tin; tham mưu cảnh sát v.v...Tổng số quân là 1.041 người, bằng đúng số biên chế của toàn thể "cán bộ, chiến sĩ" Công an Hà Nội lúc bấy giờ. Nói bằng từ của các lão thành cách mạng khi ấy là...còn đông hơn quân Nguyên, Mông thời nhà Tống vào xâm lấn An Nam bị Lý thường kiệt đánh bại trên dòng sông Như nguyệt, vì thế một con ruồi nếu không may bị rơi vào bẫy nhà tù khi ấy cũng khó lòng lọt vượt thoát khỏi sự canh chừng cẩn mật đến từng milimet đường tù qua

Ngoài ra để tránh bất cứ điều gì có thể xảy ra, mỗi chuyến đi trong tổng số 5 chuyến phải trang bị 400 khóa tay, 401 khóa xích. Chưa kể các cai tù cộng sản còn được trang bị 60 dùi cui các loại, 26 khẩu AK, 50 súng ngắn, gần 1000 đèn pin và các hàng chục các loại công cụ hỗ trợ khác, như bình xịt hơi cay; máy bộ đàm , bình cứu hoả để hễ có tù trốn, tù xổng, tù nổi loạn, la ó, hoặc thân nhân chủ động đốt xe tù để cướp người, giải vây ...thì toàn quyền xử lý: đánh đập, bắn bỏ, hoặc xịt hơi cay, chữa cháy v.v cốt không cho " chúng nó thoát , không xảy ra bất cứ sự cố đáng tiếc nào, làm ảnh hưởng tới "bề dày tích luỹ và ối đỏ chiến công" trong lịch sử ngành

Danh sách phạm nhân trên mỗi chuyến xe được đánh máy làm 5 bản: Quản giáo hai đầu trại mới và cũ giữ mỗi người một bản để cùng đối chiếu lúc "xuất" ở trại cũ và "nhập" vào trại mới; 3 bản còn lại chia đều cho đội tham mưu ; cảnh sát bảo vệ dẫn giải và Ban Giám thị trại giam, không nhầm một tên, không thừa, hay thiếu một dấu chấm, dấu phẩy .

Đúng 10 giờ 15 phút, việc di chuyển trại bắt đầu. "chuyến hàng" đầu tiên là 6 phạm nhân bị kết án tử hình... Đó là Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đình Tước, Bùi Văn Vinh, Nguyễn Văn Thắng, Trần Văn Hậu và Huỳnh Thức. khỏi phải nói đến sự hoảng loạn, đau xót của những tử tù này, tất cả đều khóc như mưa như gió, chăp tay lậy cán bộ như tế sao:

- Lạy cán bộ. Sao lại bắt chúng tôi "đi" giữa đêm hôm khuya khoắt thế này, xin cán bộ, cho em nhìn mặt vợ con lần cuối

Hoặc:

- Thưa cán bộ, chiều nay em đã được ăn bữa đặc biệt như quy định giành cho tử tù đâu , xin cán bộ cho em viết mấy chữ về gia đình ...

Khi biết tên mình còn chưa có trong sổ Nam Tào mà chỉ là một sự chuyển đổi chỗ ở , từ nơi giam cũ lạnh lẽo, chết chóc tới nơi ở mới , lạnh lẽo chết chóc không kém, mới tạm thở ra một hơi buồn bã.

Ngay sau đó, trong ánh đèn pha loé sáng nơi cổng trại, 1794 con người bị còng xích dẫn giải ra ô tô, tất cả đều diễn ra đúng bài bản đã dự liệu từ trước: Từ đọc lệnh, dẫn phạm nhân, khóa tay, đối chiếu danh sách, đưa ra xe... không chậm nửa phút, không gây nên một sự xáo trộn nào trong lòng người dân Hà Nội, chỉ có sự bàng hoàng ngơ ngác của các thân phận tù đầy khốn khổ , không biết mình bị đưa đi đâu, về trại nào, lý do gì? Có còn được gặp lại gia đình, bạn bè người thân nữa không? Đặc biệt là 150 chị em nữ, vốn sống bằng nội tâm đầy mặc cảm, kêu khóc như ri, hết "trời ơi, lại mẹ ơi, bố ơi, anh ơi con ơi...sao thân tôi khổ nhục thế này... "

40 xe, mỗi xe phải đi lại 5 lần, với tổng số 130 km, song nhờ di chuyển vào ban đêm, giữa lúc mưa to gió lớn, tốc độ nhanh, không gặp cản trở gì tại các giao lộ, cũng như chắn tàu, nên trong vòng chưa đầy 6 tiếng, tất cả 1800 phạm nhân đã được nhập trại một cách an toàn.

Sau này nhiều phạm nhân ra trại kể:

- Bình thường chẳng có ma nào quan tâm hỏi han săn sóc, lơ tơ mơ là quản giáo oánh bỏ mẹ, thế mà mấy hôm sắp chuyển trại, thấy các bố lũ lượt ra vào thăm dò thái độ tư tưởng có vẻ đặc biệt lắm, hoá ra các bố nhà ta mưu lược thật . Tất cả từ kế hoach di chuyển, kế hoach giao nhận và phương tiện; bảo vệ trên đường; bảo vệ trên xe, bảo vệ vòng trong, vòng ngoài của trại, xử lý các tình huống đột xuất, đến chuyện huy động cảnh sát giao thông, cấm đoán, phân luồng, dẫn đường, dẹp đường rồi hậu cần, dự trù kinh phí, thuê xe v.v.. đều đúng ruýt. Giá mà hồi đánh Tàu khựa tất cả đều được phối hợp nhịp nhàng gọn gàng như thế, có phải... bố chúng nó cũng không dám dạy cho Việt Nam một bài học nào, mà chỉ có ngược lại thôi... Hoá ra công an đảng ta giỏi thật, đánh tàu thì kém, kèm tù nhân rõ tài.