Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Di Cư 1975 Saigon vĩnh viễn vẫn là Saigon trong Trái Tim Mẹ Việt Nam

Saigon vĩnh viễn vẫn là Saigon trong Trái Tim Mẹ Việt Nam PDF Print E-mail
Tác Giả: Mường Giang   
Thứ Năm, 23 Tháng 4 Năm 2009 15:10

DÙ BA MƯƠI BỐN NĂM BỊ MẤT TÊN (1975-2009),
NHƯNG SÀI GÒN VĨNH VIỄN VẪN LÀ SÀI GÒN TRONG TRÁI TIM MẸ VIỆT NAM

 (Bài được lưu trữ trên trang nhà huongvebinhthuan.org và thuvientoancau.org)

Năm Ất Mùi (1295), Nguyên Thành Tôn cử một phái đoàn sứ giả tới thăm vua Chân Lạp là Cindravarman (1295-1307), nhân tiện nhắc nước này về việc không triều cống cho Tàu. Trong đoàn, lúc đó có tuỳ viên Châu Ðạt Quan, đã ghi lại cuộc du hành qua các thiên ký sự như “Chân Lạp Phong Thổ Ký,” “Thành Trai Tạp Ký,” “Cổ Kim Thuyết Hải,” “Ðồ Thư Tập Thành,” về sau được danh sĩ Ngô Khâu Diên ca tụng hết lời trong tác phẩm “Trúc Tố Sơn Phòng Thi Tập.”

Cũng nhờ những ghi chép của họ Châu, chúng ta ngày nay mới biết được thực trạng của vùng Thủy Chân Lạp (Nam Phần), qua thủy lộ từ Cửa Ðại (Mỹ Tho), tới các vùng đất của miền Lục Chân Lạp (Kampuchia ngày nay) như Trà Nam (tức Tch’a Nan, tỉnh Kompong Chhnag), Bàn Lộ Thôn (Panlon Is’one), Phật Thôn (Fo Is’one), Ðàm Dương (Biển Hồ - Tân Yang Tonlésap) và kinh đô lúc đó là Angkor, tức Ðế Thiên Ðế Thích.

Theo bút ký ghi lại, ở đâu cũng chỉ thấy cảnh hoang tàn cô quạnh, hầu như toàn là cỏ kê lau lách, không một bóng cây xanh, vườn tược, ruộng rẫy và sự sống hay bước chân của con người, ngoài tre nứa và từng đàn trâu rừng tụ họp trong các đầm lầy bùn sình, dọc theo hai bờ sông đục ngầu và đặc sệt những đám lục bình lang thang xuôi ngược.

Ðọc “Ðất Việt Trời Nam” của Thái Văn Kiểm, ta thấy tác giả đã hết lòng ca tụng Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) và Trần Nhân Tông thưở trước, vì hai Ngài chỉ nghĩ tới non nước, nên vua Trần thì đã gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân, vừa được thêm hai châu Ô, Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên), lại vừa có được một đồng minh Chiêm Thành lúc đó, rất hùng mạnh ở phương Nam, để hai nước cùng lo chống giặc Mông Cổ. Còn Sãi Vương cũng vậy, Ông đã vì nước, nên đem hai người con gái cưng là Ngọc Khoa gả cho vua Chiêm Thành Po Romé và Ngọc Vạn lấy vua Chân Lạp Chei Chetta II. Nhờ vậy Ðàng Trong mới có hòa bình ở nam phương, tạo cơ hội cho người dân Thuận Quảng tới được miền Thủy Chân Lạp lúc đó đang bị bỏ hoang, để khai khẩn làm ăn vì lãnh thổ của Chúa Nguyễn rất hạn hẹp, không có bao nhiêu đồng ruộng, trong đó đất đai hầu hết đều xấu vì sự xâm thực của cát biển, đất núi, không trồng trọt được là bao, dù nông dân đã tận lực.

Năm 1698, sau khi bình định xong Thuận Trấn, Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh được lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu vào Nam để mở rộng bờ cõi Ðại Việt. Cùng theo đoàn quân đi mở đất phương Nam, lúc đó có rất nhiều di dân theo khai hoang lập nghiệp. Nhưng tất cả từ quân cho tới dân, ai nấy đều không khỏi kinh hoàng bạt vía, trong cảnh bơ vơ nơi đất lạ muôn trùng: “Tới đây xứ sở lạ lùng, con chim kêu phải sợ, con cá vẫy vùng cũng kinh,” và “Chèo ghe sợ sấu cắn chưn, xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma.” Sự kiện này cũng đâu khác gì hoàn cảnh của người Việt trước đó, khi theo chúa Nguyễn Hoàng, tới khai khẩn lập nghiệp các vùng đất miền Trung bỏ hoang của người Chiêm, từ Bình Ðịnh vào tới Bình Tuy ngày nay. Tất cả đã nói lên mặt thật của miền đồng bằng sông Cửu Long và địa danh Sài Gòn, thuở xa xưa hơn 300 năm về trước, khi mà ông cha ta từ miệt ngoài vào đây khẩn hoang lập vườn. Tất cả thật sự là vùng ác địa, ma thiêng nước độc, chẳng những trên rừng hoang đầy rẫy thú dử, mà ngay dưới sông cũng đặc nghẹt ngư kình.

Cũng may các vị tiền nhân trong đó hầu hết là các Chúa Nguyễn Nam Hà, nhất là Sãi Vương, Hiền Vương và Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu, cùng với các danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Cửu Ðàm, Nguyễn Văn Thoại, Lê Văn Duyệt và lưu dân Thuận Quảng lúc đó, đã lấy mồ hội nước mắt, cùng với xướng máu và sự quyết tâm vượt qua mọi nguy hiểm tại họa chết người, mà ngày nay chúng ta và con cháu mới có được miền đất Nam Phần trù phú, cũng như thủ đô yêu dấu Sài Gòn, để cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế , sau ngày 30-4-1975 vào cướp của và đổi tên, dọn bàn thờ hương án để đón rước “Ðuốc máu của giặc Tàu” trong ngày 29-4-2008 và voi Tàu từ Lâm Ðồng, Quảng Ðức đang chuẩn bị tràn xuống làm cỏ Miền Nam và Sài Gòn.

Theo Trịnh Hoài Ðức trong “Gia Ðịnh Thành Thông Thái,”‘ ngay từ năm 1623, thì dân Việt đã đến làm ăn tại Sài Gòn lên tới 10.000 người, nên Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên đã cho thu thuế thương chính cũng như lập đồn binh, trại quân để bảo vệ an ninh và tài sản của lưu dân Việt. Như vậy Sài Gòn đã trở thành vùng đất quan trọng của Nam Hà, từ nửa thế kỷ XVII. Nhưng theo Lê Quý Ðôn trong “Phủ Biên Tạp Lục” thì địa danh Sài Gòn, mới thật sự chính thức vào sử sách, từ tháng 2-1674, khi Hiền Vương sai Nguyễn Dương Lâm vào bảo vệ cho Phó Vương Chân Lạp là Nặc Nộn, đóng đô ở đây.

Cũng từ đó Sài Gòn đã thay đổi không ngừng theo sự biến chuyển của lịch sử dân tộc, mà khởi đầu là việc Kinh Lược Sứ Nguyễn Hữu Cảnh năm 1698, dựng Dinh Phiên Trấn, lập Huyện Tân Bình và khai sinh ra Đô Thị Sài Gòn. Năm 1890 Chúa Nguyễn Phúc Ánh xây thành Bát Quái nguy nga tráng lệ với một chu vi tới 648 mét. Thành này được Vua Minh Mạng phá bỏ năm 1836, để xây Gia Ðịnh Thành và tồn tại tới 17-2-1859, mới bị thực dân Pháp và Tây Ban Nha phá sập. Từ đó Sài Gòn sống dưới gót giầy nô lệ của ngoại xâm nhưng đã không bị giặc dày xéo xóa tên, trái lại còn được trân quý, nổi danh thành “Hòn Ngọc Viễn Ðông” một thời lừng lẫy.

Ngày 3-9-1945, Nhật đầu hàng Ðồng Minh vô điều kiện. Thừa dịp chính quyền Việt Nam lúc đó đang bị bỏ ngỏ vì sự sụp đổ của Chính Phủ Trần Trọng Kim, sự thoái quyền bất ngờ của Vua Bảo Ðại, nên Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền. Cùng lúc thực dân Pháp cũng theo chân quân Anh, Ấn tái chiếm Sài Gòn dễ dàng, nhờ sự góp công của Ủy Ban Kháng Chiến do Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, cán bộ Cộng Sản Đệ Tam trá hình trong Mặt Trận Việt Minh lúc đó chỉ lo thanh toán các thành phần đối lập, ruồng bắt thủ tiêu, chỉ điểm sát hại các lãnh tụ quốc gia, trong số này có Ðức Huỳnh Phú Sổ, Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo, kể cả người anh em Cộng Sản Đệ Tứ, làm cho tiềm lực kháng chiến chống Pháp tại Sài Gòn và Nam Phần bị chia rẽ, yếu kém.

Rồi lợi dụng lòng nhân từ, tình đồng bào và lệnh hưu chiến vào ngày Tết Nguyên Ðán thiêng liêng nhất trong năm của dân tộc, Hồ Chí Minh và đảng Việt Cộng, ra lệnh tổng tấn công khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, từ bên này cầu Hiền Lương tại vĩ tuyến 17, vào tới chốn tận cùng của đất Việt ở Cà Mâu, trong dịp tết Mậu Thân 1968. Thủ Đô Miền Nam, bao gồm Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Ðịnh bị Cộng Sản Quốc Tế tấn công 2 lần, đợt 1 vào dịp Tết và lần 2 trong tháng 5-1968. Ngoài sự thiệt hại vật chất, nhất là ở những chốn thờ phụng tôn nghiêm, bị Cộng Sản chiếm đóng, đặt súng đạn để tấn công đồng bào và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên đã bị bom đạn của cả hai phía tàn phá, cùng với nhiều khu vực sinh sống làm ăn của người dân lương thiện.

Sài Gòn kinh hoàng trước cảnh tàn phá và người chết vì Việt Cộng, đâu có khác gì cảnh quân Tây Sơn thuở trước đốt phá Ðồng Nai, Biên Hòa, Gia Ðịnh, để trả thù dân chúng ở đây, đã theo Chúa Nguyễn Ánh chống lại họ. Nhưng cuối cùng nhờ sự hy sinh xương máu của người lính miền Nam, nên Việt Nam Cộng Hòa vẫn đứng vững và Sài Gòn vẫn là Hòn Ngọc Viễn Ðông trân quý của Thế Giới Tự Do, cho tới trưa ngày 30-4-1975, qua lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, bắt dân lính buông súng, giải tán và đầu hàng giặc xâm lăng, mới chịu gục ngã trước bạo lực.

Sau khi dẹp bỏ cái quái thai của thời đại, được gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam,” ngày 20-12-1976 Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế, qua quyền hành của kẻ thắng trận, lập nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gồm hai miền Nam, Bắc; thủ đồ cả nước là Hà Nội, năm đó có 800.000 dân kể cả ngoại ô. Còn Sài Gòn, Thủ Đô của Miền Nam, vùng đất thiêng của dân tộc, được tạo dựng bằng máu lệ xương thịt của tiền nhân, qua bao nhiêu thế hệ kể cả quân dân Việt Nam Cộng Hòa trong 20 năm (1955-1975), bị Cộng Sản Quốc Tế cưỡng đoạt, đổi tên là Thành Phố Hồ Chí Minh, giá trị chỉ là một thành phố địa phương, như những thành phố lớn trong nước Hải Phòng, Vinh, Huế, Ðà Nẵng, Cần Thơ… dù Sài Gòn năm đó, có dân số đông nhất nước, là 1.860.000, nếu cộng thêm vùng ngoại ô, gồm 6 quận Bình Chánh, Thủ Ðức, Hóc Môn, Củ Chi, Nhà Bè và Duyên Hải, tổng cộng là 2.680.000 người.

Ba mươi bốn năm qua, kể từ ngày Sài Gòn bị mất tên, mà thật sự chỉ mất trên các văn kiện của đảng Cộng Sản chứ nơi tâm hồn của người Việt trong và ngoài nước, trừ một vài tờ báo bợ đít Việt Cộng xài, còn đâu có ai thèm dùng cái xú danh này, dù là giai đoạn hung hiểm nhất (1975-1990).

Sau khi “thiên đàng Xã Hội Chủ Nghĩa” bị sụp đổ tại Ðông Âu và Liên Sô, bắt buộc đảng Việt Cộng phải mở cửa để kiếm sống và cứu mình. Cũng kể từ đó cho tới nay (2009), người Việt Nam trong và ngoài nước, hầu như không còn ai nhớ tới thành Hồ, kể cả những lúc bị bắt buộc, họ vẫn nói trỏng là thành phố mà thôi. Mấy lúc gần đây, có một số văn nô trong nước, trước vấn nạn của đồng bào về việc tại sao phải đổi tên Sài Gòn, đã trả lời đó là để ghi nhớ công ơn của một số danh nhân, nên đảng đã lấy tên làm một số địa danh như Thành Phố Hồ Chí Minh, đường Nguyễn Văn Trỗi, công viên Lê Văn Tám, trường Võ Thị Sáu, kênh Lê Anh Xuân… Chúng còn viết thêm, vì anh thanh niên Nguyễn Văn Ba, đã xuất dương cứu nước tại bến Ðầu Rồng vào năm 1911, nên phải đổi tên Sài Gòn, để kỷ niệm. Luận điệu y chang như việc thầy Thành tới dạy học ở trường Dục Thanh Phan Thiết độ vài ba tháng. Chỉ chừng đó thôi, nên đảng phải tịch thu gia sản của Nguyễn Thông và đồng bào quanh vùng Cồn Cỏ Ðức Nghĩa, dọc theo bờ sông Cà Ty (đường Trưng Nhị), để lập nhà bảo tàng cho “bác” được sống mãi trong “quần, chúng Bình Thuận.”

Vì gần hết cán bộ cao cấp của đảng Cộng Sản Việt Nam đều xuất thân tại Liên Sô, từ Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong... xuống tới các thế hệ đương cầm quyền hiện nay như Nông Ðức Manh, Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, cho nên việc đảng Cộng Sản Việt Cộng, sao y bản chánh từ đảng Cộng Sản mẹ Liên Sô, đem về ứng dụng tại Việt Nam, cũng là điều bó buộc. Tại Liên Sô, sau cách mạng 1917, Lenin triệt hạ Nga Hoàng, đổi cờ, chế độ , xây tượng đài, lăng, ướp xác và đổi luôn tên của thành phố lớn thứ hai cùa Nga, vốn là nơi sinh quán của mình (kể cả Putin sau này), từ tên nguyên thủy St.Petersburg thành Leningrad (hiện có 4.456.000 dân).

Sau đó Stalin cũng bắt chước Lenin, đổi thành phố sinh quán của mình là Volgograd thành Stalingrad (hiện có 999.000 người). Nhưng đời là một cuộc bể dâu trước mắt, nên đâu có ai ngờ được ngày mai, như chuyện bên Tàu, khi Trung Cộng chiếm được Lục Địa, đã nhân danh khảo cổ, văn hóa, nghệ thuật, mà thật sự là đào mả người khác để cướp vàng bạc châu báu, nên ra lệnh cho khai quật tất cả các lăng mộ của hầu hết các vị đế vương Trung Hoa, từ Tần Thủy Hoàng, Hán Cảnh Ðế, Võ Tắc Thiên... ở đồng bằng Guanzhong, tây bắc tỉnh Shannxi (72 Hoàng Đế), cho tới mộ của Càn Long, Từ Hi… những vị vua Mãn Thanh, tại vùng đông bắc nước Tàu.

Năm 1991, chế độ Cộng Sản bị cáo chung tại Ðông Âu và Liên Sô, ngoài việc hai thành phố Leningrad và Stalingrad được lấy lại tên cũ, các tượng Lenin tại Mạc Tư Khoa và cả nước bị giựt sập, thảm nhất là bức tượng bề thế tại Quảng Trưởng Đỏ của thủ đô bị dân chúng Nga chém đầu. Riêng lá cờ máu búa liềm của Liên Sô, được xài từ năm 1917 tới đầu năm 1992, cũng được thay thế bằng lá cờ tam tài nằm ngang với ba màu trắng xanh lơ và đỏ của nước Nga, đã có từ thế kỷ XIX, với ý nghĩa thiêng liêng, nói lên sự hình thành của nước này, do ba chủng tộc: Bạch Nga (màu trắng), Ukraine (màu xanh lơ, nay đã tách riềng thành một nước độc lập) và người Moskva (màu đỏ).

Những ngày máu lửa cuối tháng 4-1975, nhiều người uất hật đau khổ bỏ nước ra đi trong tuyệt vọng và tin chắc rằng cả đời mình sẽ chẳng bao giờ được trở về quê hương, trong đó có Sài Gòn. Bởi vậy Nguyễn Ðình Toàn đã viết “Sài Gòn ơi ta đã mất người như người đã mất tên.” Nhưng bây giờ thì ai cũng ngang nhiên, dõng dạc về Sài Gòn hàng chục lần và ngay trước mặt công an Việt Cộng, ai cũng xài tên Sài Gòn, chứ có người nào nói tới Thành Phố Hồ Chí Minh?

Như vậy Saìgòn đâu có mất tên, vì Người Việt, Nước Việt vẫn còn. Nên chuyện lấy lại cái tên chính thức chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi, vì cuộc biển dâu, đâu ai biết trước mà ngờ? Theo tin của Reuters ngày 28-9-2005, thì các chóp bu Ðiện Cẩm Linh, trong đó có Putin, đang cứu xét việc đập bỏ lăng Lenin, lãnh tụ đầu tiên của Đảng Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế, chết năm 1924, được xây tại Quảng Trường Ðỏ ở thủ đô Mạc Tư Khoa (Moscow), đem chôn theo ý của dân Nga, đã đòi hỏi từ năm 2001 tới nay vẫn chưa nhúc nhích.

Những ngày còn sống trong nước, bất cứ nghe ai hát lén bài hát đầu tiên từ hải ngoại vọng về quê hương Việt Nam đang quằn quại ngoi ngóp trong địa ngục Đỏ, khiến ai cũng phải khóc . Ðó là bài “Vĩnh Biệt Sài Gòn” của Nam Lộc, trước năm 1975 là một Sĩ Quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một nhạc sĩ tài tử, chuyên môn giới thiệu hầu hết các chương trình “Nhạc Trẻ Của Sài Gòn” trong thập niên 60-70. Thiên hạ chưa kịp khô hết nước mắt hận hờn, thì Việt Dũng lại làm cho người người thét lên thành tiếng, khi anh viết “Một Chút Quà Cho Quê Hương”:

“Em gửi về cho anh dăm bao thuốc lá

anh đốt cuộc đời mòn trên ngón tay

gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may

mẹ may hộ con Quê Hương quá đọa đày

con gởi cho cha một manh áo trắng

cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây. . .”

Những lời ca thắm thiết của một thời, nghe hoài vẫn thấy đứt ruột. Tóm lại Sài Gòn thời Xã Hội Chủ Nghĩa “cái gì cũng có” nhưng những cái hiện có đều là sở hữu chủ của “đảng và cán bộ ta,” còn 99% dân nghèo mạt kiếp Sài Gòn chỉ có mạng không để ngày ngày đứng bên lề trơ mắt ngó trong nỗi tuyệt vọng đợi chờ.

SÀI GÒN TRƯỚC NGÀY 1-5-1975

Sài Gòn khởi thủy chỉ là một làng đánh cá nhỏ của người Miên, nằm ở vị trí giao tiếp của Rạch Bến Nghé với Sông Sài Gòn và trở nên quan trọng, sau khi được chọn làm thủ đô miệt rừng của Phó Vương Miên, cai quản miền Thủy Chân Lạp, nên mới được gọi là Prey Nokor. Trong lúc đó hầu hết lưu dân Việt đầu tiên, tới khẩn hoang lập ấp trên đất Miên, đều tập trung ở khu vực đông bắc, vùng Mõ Xùy, Ðồng Nai, cách Sài Gòn chừng 30 cây số.

Tất cả cũng nhờ công lao của Hoàng Hậu Ngọc Vạn, nên triều đình Chân Lạp đã cho phép người Việt vào đất Miên lâp nghiệp một cách dễ dàng. Năm 1698 Preykor đổi thành Sài Côn, được mô tả là nhộn nhịp trù phú. Nhưng năm sau (1699) bị vua Chân Lạp là Nặc Thu, ra lệnh đốt phá nhà cửa và tàn sát (Cáp Duồng) lưu dân Việt tại đây. Trước tình cảnh nguy ngập của đồng bào, nên Chúa Nguyễn Phúc Chu, đã phái Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh, đem quân hai Dinh Bình Khang, Bình Thuận vào Nam, hợp với hai cựu tướng nhà Minh là Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Ðịch, lúc đó đang cùng 3000 binh sĩ dưới quyền, được Chúa Nguyễn, cho khai phá vùng Ðông Phố, Lộc Dã, Mỹ Tho.., để lập các làng định cư Minh Hương.

Tất cả cùng nhau bình định Chân Lạp, đánh đưổi Nặc Thu chạy về Nam Vang. Sau khi tình hình khắp vùng đã ổn định, Nguyễn Hữu Cảnh trả lại đất Lục Chân Lạp cho vua Miên, rút quân về nhưng trên đường lui quân, thì nhuốm bệnh và mất tại Rạch Gầm (Ðịnh Tường), vào ngày mồng 9 tháng 5 năm Canh Thìn (1700), lúc đó chỉ mới 51 tuổi. Ðược tin buồn trên, cả nước, từ triều đình xuống tới dân chúng, ai cũng thương tiếc một đấng anh hùng cái thế, có công lao rất lớn đối với đất nước và dân tộc Việt Nam, trên đường mở mang bờ cõi về phương Nam. Vì vậy gần như khắp nơi ở Ðàng Trong, nhất là Nam Phần, nơi nào cũng có đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, dù theo tài liệu, thì ông được chôn ở Biên Hòa. Ông thuộc dòng dõi của Nguyễn Bậc (đời nhà Ðinh), Nguyễn Trãi (Hậu Lê), Nguyễn Hữu Bài (Nhà Nguyễn) cũng là con cháu của ông. Người Chân Lạp cũng lập đền thờ ông tại Nam Vang, vì kính phuc đức độ nhân từ của một tướng tài Việt Nam.

Theo Trịnh Hoài Ðức, từ năm 1698 trở đi, Nam Hà đã thiết lập được chính quyền tại Sài Gòn, dựa theo qui chế của nhà Hậu Lê, vì lúc đó các Chúa Nguyễn tuy đánh nhau với Họ Trịnh nhưng vẫn còn thần phục Vua Lê. Mãi tới năm 1744, Chúa Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu, dời phủ chúa về kinh thành Phú Xuân (Huế), đúc ấn tín và chia bờ cõi Ðàng Trong, từ Nam Bố Chính vào tới Hà Tiên, thành 12 dinh, 1 trấn, đặt Huyện Tân Bình (Gia Ðịnh) làm Phiên Trấn Dinh. Sau khi Thống Suất Kinh Lược Sứ Nguyễn Hữu Cảnh mất, các quan võ cao cấp nhất thời ấy, lần lượt thay thế như Trương Phúc Vĩnh (1731), giữ chức Ðiều Khiển. Năm 1753 quan Ký Lục Bố Chính Dinh là Nguyễn Cư Trinh, giữ chức Tham Mưu, chỉ huy 5 Dinh Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ, đồng thời kiêm Kinh Lược Sứ, cai trị luôn đất Lục Chân Lạp.

Năm 1772 Chúa Nguyễn Phúc Thuần cử Nguyễn Cửu Ðàm, con Nguyễn Cửu Vạn làm Ðiều Khiển Sài Gòn, kiêm Thống Suất các Dinh. Ông là người đầu tiên cho đắp lũy đất, bao quanh các đồn dinh, chạy dọc theo Rạch Thị Nghè, sông Sài Gòn để ngăn ngừa các cuộc tấn công của người Miên. Năm 1776 bị quân Trịnh từ Ðàng Ngoài tấn công, Chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng hoàng gia, bỏ Phú Xuân, chạy vào Sài Gòn nhưng năm sau (1777), lại bị Nguyễn Lữ (Tây Sơn) tấn công, nên Chúa Nguyễn phải chạy về Dinh Trấn Biên. Từ đó, trong suốt 10 năm (1777-1787), Sài Gòn trở thành bãi chiến trường giữa hai phe Chúa Nguyễn và Nhà Tây Sơn. Cuối cùng vào tháng 8-1788, Chúa Nguyễn Ánh (cháu Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn giết), mới chiếm lại được Sài Gòn.

Năm 1802 Vua Gia Long đánh bại Nhà Tây Sơn và thống nhất đất nước từ Bắc vào Nam, đóng đô tại kinh thành Huế thuộc tỉnh Quảng Thuận (Thừa Thiên). Sài Gòn và toàn cõi Nam Phần, được giao cho quan Tổng Trấn Lê Văn Duyệt, là một trong những tướng lãnh tài ba, đạo đức của Nhà Nguyễn. Vùng đất cuối cùng của miền Thủy Chân Lạp, được sáp nhập vào lãnh thổ của Ðại Nam, năm 1840 là Sóc Trăng, kết thúc cuộc Nam tiến của người Việt, từ Quảng Bình vào tới Hà Tiên, kéo dài hơn 800 năm.

Năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu xâm lăng Việt Nam, chiếm Sài Gòn lúc đó, theo tài liệu của một người Pháp tên Barrière viết trong “Histoire De L’expédition En Cochinchine En 1861” thì đây không phải là một thành phố, mà chỉ là các làng mạc rải rác, trên địa điểm của Sài Gòn ngày nay. Riêng lưu dân Trung Hoa đầu tiên tới lập nghiệp tại Biên Hòa từ năm 1860 nhưng thành phố này đã bị quân Tây Sơn tàn phá năm 1778. Do đó mọi người phải chạy về Rạch Bến Nghé lánh nạn và xây dựng ở đây thành phố Chợ Lớn.

Khi Lê Văn Duyệt làm Tổng Trấn Gia Ðịnh Thành, đã chỉnh trang lại Chợ Lớn, thiết lập giang cảng, trải đá dọc theo Rạch Bến Nghé và cho xây cất nhiều kho hàng ở cả hai bên bờ. Ngoài ra còn cho đào nhiều kênh, biến các vùng đất thấp trũng nước thành ruộng lúa. Hàng hóa và ghe thuyền khắp nơi, nhờ có Rạch Bến Nghé (Trung Hoa) và kênh đào nên ra vào Chợ Lớn tấp nập. Tính tới năm 1861, Chợ Lớn có 40.000 dân và 500 nhà lợp ngói, ban đêm thành phố được soi sáng bởi đèn dầu phộng.

Tóm lại trong thời Pháp thuộc, ở đây có hai thành phố riêng biệt: Người Việt và một số ít người Hoa sống ở Sài Gòn; còn Chợ Lớn là thành phố của người Hoa, ngăn cách nhau bởi một nghĩa địa lớn. Ðề Đốc Le Page (1859) và Bonnard (1861) là những người có công, tiếp nối công trình dang dở của Tổng Trấn Lê Văn Duyệt, trong việc chỉnh trang, xây dựng và mở rộng Sài Gòn Chợ Lớn thành Hòn Ngọc Viễn Ðông. Từ năm 1954 đến 30/4/1975, Sài Gòn Chợ Lớn nhập chung thành một và là Thủ Đô của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng Chợ Lớn vẫn là trung tâm thương, công nghiêp số 1 của Miền Nam, giữ vai trò nhập, xuất cảng mọi sản phẩm chế biến, kể cả lúa gạo của đồng bằng sông Cửu Long. Trong lúc đó Sài Gòn là một thương cảng, thành phố Âu hóa với nhiều cao ốc, trường học, gian hàng buôn bán và là trung tâm hành chánh của Chính Phủ.

Sài Gòn thời Pháp thuộc (1861-1954)

Khi thực dân Pháp xâm lăng "Nam Kỳ," chiếm Sài Gòn đã có mưu đồ coi vùng đất này như là lãnh thổ của chính quốc. Vì vậy thành phố đã được chỉnh trang và xây dựng nhanh chóng, để đáp ứng với tình hình chính trị và quân sự lúc đó. Trước đây, thành cổ Sài Gòn và Chợ Lớn thời nhà Nguyễn được bao bọc bởi hai con rạch Tàu Hũ, Thị Nghè và sông Sài Gòn, nắm ưu thế về quân sự lẫn kinh tế. Chính Chúa Nguyễn Ánh trong thời gian tẩu quốc, đã nhìn thấy sự lợi hại của Sài Gòn, nên quyết tâm chiếm lại trong tay Nguyễn Lữ, để làm hậu phương và căn cứ chính cho quân Nguyễn, chống lại Nhà Tây Sơn.

Qua các bản đồ cổ còn lưu trữ tại Nha Ðịa Dư Việt Nam, ta thấy đầu tiên Sài Gòn-Chợ Lớn, gần như phát triển riêng biệt. Cũng trong thời gian này tình trạng dân số tại hai thành phố tăng trưởng nhanh chóng, vì vậy Pháp đã mở nhiều trục lộ giao thông trong hai thành phố. Sau khi Ðệ Nhất Thế Chiến chấm dứt, thực dân trở lại khai thác tài nguyên Ðông Dương mà Việt Nam là quan trọng nhất. Từ Sài Gòn, Chợ Lớn, Pháp di dân tới miền Ðông là vùng đất xám đỏ rất phì nhiêu, để lập các đồn điền trồng cao su, cà phê, trà, mía, thuốc lá. Ðồng thời Pháp cũng di dân về đồng bằng sông Cửu Long, đào kênh, mở rộng đất đai trồng lúa.

Sự phát triển kinh tế "Nam Kỳ," giữa hai cuộc thế chiến, làm tăng thêm sự thịnh vượng của Giang Cảng Sài Gòn, nhất là việc xuất cảng gạo. Cũng từ đó nhiều nhà máy xay lúa, các khu công nghệ chế biến gần như tập trung ở Chợ Lớn, thu hút cư dân cả nước đổ xô về thủ đô của "Nam Kỳ" lập nghiệp, nhờ sự phát triển của các hệ thống thiết lộ xuyên Việt từ Bắc vào tới Sài Gòn, Mỹ Tho và Lộc Ninh. Ðường bộ lên tới Nam Vang của Cao Miên, được khai thác từ năm 1936 trong thời gian Doumer làm Toàn Quyền Ðông Dương. Mặc dù đã có đường xe lửa và đường bộ nối liền nhưng trước năm 1945, giữa Sài Gòn Chợ Lớn vẫn còn ngăn cách bởi khu nghĩa địa, nhiều đầm lầy, ruộng trồng lúa và các khu vườn trồng cây ăn trái.

Sau ngày 3-9-1945, Nhật thua trận đầu hàng Ðồng Minh và rút hết về nước. Ngay lúc đó, thực dân Pháp được Anh giúp đỡ, đã trở lại cưỡng chiếm Việt Nam một lần nữa. Chiến tranh long trời lở đất khắp toàn cõi Ðông Dương, kéo dài suốt 9 năm (1946-1954), gây cảnh nhà tan người chết nhưng thảm thê nhất, vẫn là tuyệt lộ của đồng bào, trong thời lửa đạn, một cổ hai tròng của giặc Pháp xâm lăng và Cộng Sản núp trong Mặt Trận Việt Minh, tha hồ nhiễu nhương bá tánh, nhất là những người không chịu theo phe đảng với chúng. Do vậy mà dân chúng khắp nơi, nhiều người phải bỏ làng mạc, đồng ruộng, chạy về Sài Gòn lánh nạn , làm cho dân số ở đây từ năm 1946 tới 1954, tăng thêm 4 lần (492.000 người lên tới 1.900.800 người).

Cuối cùng quân viễn chinh Pháp đã bị toàn dân Việt Nam đánh bại tại Ðiện Biên Phủ nhưng thảm thê thay cho số phận của một dân tôc nhược tiểu trước sự sắp đặt của cái gọi là Liên Hiệp Quốc, nên đất nước lại chia đôi, làm cho nửa phần giang sơn gâm vốc của Hồng Lạc, đã phải ngậm ngùi đắng cay, lọt vào thế lực của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản. Ngày 20-7-1954, hiệp định phân đôi đất nước chính thức được ký tại Genève, lần nữa đã làm hơn cả triệu đồng bào Miền Bắc, trốn chạy vào Nam tị nạn Cộng Sản, trong số này có 850.000 người đổ xô về Thủ Đô Sài Gòn-Chợ Lớn. Ngày 7-7-1954 nội các Ngô Ðình Diệm chính thức ra mắt quốc dân Việt Nam, trong một giai đoạn vô cùng hỗn loạn nhất của đất nước với tình trạng sứ quân như thời nhà Ngô và trên hết là nạn nhân mãn tại Thủ Đô.

Sài Gòn thời Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975)

Ngay khi thu hồi được nền độc lập từ thực dân Pháp, Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã nỗ lực chỉnh trang và mở rộng thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh, để giải quyết tình trạng gia tăng dân số. Thành phố được mở rộng khắp nơi, ngoại trừ phía bên Thủ Thiêm vì sự ngăn cách bởi con sông Sài Gòn quá rộng, không có cầu bắc ngang sông và vùng bên đó có nhiều ao hồ, trũng thấp nên thường bị lụt. Nhiều cầu mới được bắc ngang Kinh Tàu Hũ và Kinh Ðôi, cùng với đường xe lửa và nhiều đường xá chạy song song với hai con kênh trên, khiến ranh giới giữa Sai Gòn-Chợ Lớn, được thu hẹp. Trong giai đoạn này, đã có nhiều xóm nhà bình dân, mọc lên ở vùng ven biên, gồm khu nhà sàn và nhà ghe dọc theo hai bờ kinh Tàu Hũ, từ Cầu Quay tới Chợ Quán, dọc theo bến Hàm Tử, Bình Ðông và bến Phạm Thế Hiển (Kinh Ðôi).

Ðể giải quyết nạn nhân mãn tại Thủ Đô, ngoài việc hồi hương của quân viễn chinh Pháp và người Việt có quốc tịch nước này, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã ban hành các Dụ số 7 (1955), Dụ số 57 (1956), nhằm mục đích khuyến khích nông gia có ruộng trở về tiếp tục canh tác, nếu bỏ hoang sẽ bị truất hữu để phân phối cho người khác. Ðạo luật trên, cũng nhằm thực hiện chính sách cải cách điền địa của Chính Phủ Quốc Gia, giúp tá điền trở thành chủ điền, bằng chính sách tịch thu ruộng của những chủ điền có trên 100 mẫu tây.

Ruộng này được bán lại cho tá điền, qua hình thức Tín Dụng, trả góp cho chính phủ trong 12 năm. Ngoài ra còn có Chính Sách Dinh Ðiền và Khu Trù Mật, dành cho đồng bào di cư Miền Bắc và đồng bào nghèo ở Miền Trung cũng như trên các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần. Tại các Khu Dinh Ðiền mới này, nông dân ngoài ruộng được cấp tùy theo nhân khẩu (từ 1-2 mẫu), còn có quyền khẩn hoang tới 5 mẫu đất. Còn Khu Trù Mật thì dành riêng cho các gia đình sống rải rác ở những vùng xa xôi các trục giao thộng, quận, tỉnh… được dồn về đây sinh cơ lập nghiệp. Ðây là một địa điểm chuyển tiếp, giữa nông thôn và thành thị, nên có đủ cơ sở hạ tầng, trường học, chợ búa và bệnh xá. Tất cả miễn phí, nhà có điện và đất vườn trồng các loại cây ăn trái. Tóm lại chỉ trong 3 năm (1955-1957), chính phủ đã thiết lập được 72 Khu Dinh Ðiền và Khu Trù Mật ở Cao Nguyên Trung Phần, 37 ở Miền Trung và 97 Khu tại Nam Phần. Nhờ vậy đã giảm bớt 250.400 người tại Sài Gòn (80.325 đồng bào miền Bắc di cư, 70.075 dân Miền Trung và một số dân Ðô Thành tình nguyện).

Ngoài ra chính phủ còn thực hiện nhiều công trình chỉnh trang thành phố như dẹp bỏ thiết lộ Sài Gòn-Mỹ Tho và hệ thống đường xe lửa điện trong thành phố, mở rộng các đại lộ chính, xây hai cầu Phan Thanh Giản và Thị Nghè, để mở rộng thành phố ra Xa Lộ Biên Hòa. Một hệ thống xe buýt công cộng, nối liền trung tâm thủ đô với các quận ven biên Tân Bình, Bình Thạnh, Phú Nhuận, khiến cho dân số vùng này, từ 64.700 (1951) tăng lên 236.000 (1959).

Ngày 20-12-1960, Hồ Chí Minh và Cộng Sản Hà Nội, lại phát động cuộc chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, qua bình phong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, theo chiến thuật cố hữu “lấy nông thôn bao vây thành thị,” gây bất ổn đời sống của đồng bào khắp nơi, khiến cho nhiều người lại bỏ hết tài sản, ruộng vườn, để chạy ngược về Sài Gòn lánh nạn. Rồi thì chính biến 1-11-1963, anh em Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị sát hại dã man trên chiếc Thiết Vận Xa, từ Chợ Lớn về Bộ Tổng Tham Mưu. Dương Văn Minh lên nắm quyền Chủ Tịch Hội Ðồng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ra lệnh đình chỉ chương trình chỉnh trang Thủ Đô, đồng thời giải tỏa và dẹp bỏ các Khu Dinh Ðiền và Trù Mật của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Sự kiện trên đã làm hỏng chiến lược giảm dân thành phố và trên hết, cô lập Việt Cộng trà trộn sống bám vào dân, tạo cơ hội cho Cộng Sản trở lại nằm vùng và len lỏi vào dân đang sống tại các Ấp Ðời Mới (Tân Sinh), sau khi bỏ hết các vòng rào chiến lược, phòng thủ.

Sau 3 năm (1963-1966) xáo trộn chính trị vì nạn loạn tướng, kiêu tăng và cha cố ông trời, làm cho tình hình cả nước cũng như tại thủ đô nát bét vì sự tranh dành quyền lực của mọi phe nhóm, tạo cơ hội cho Việt Cộng hồi sinh, đánh phá khắp nơi, khiến cho dân chúng nông thôn bồng bế chạy về các thị trấn, tỉnh lỵ và thủ đô lánh nạn, làm cho vật giá leo thang, thất nghiệp trầm trọng, nẩy sinh nhiều tệ đoan xã hội như trộm cướp, giết người, hút xách, đĩ điếm, lấy Mỹ và quân đội Ðồng Minh có mặt tại Việt Nam Cộng Hòa. Tháng 7-1967, Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống nền Ðệ Nhị Cộng Hòa Miền Nam. Từ đó ông lại tiếp tục sự nghiệp phát triển Thủ Ðô như mở mang hệ thống giao thông vận tải, thực hiện chương trình làm đẹp thành phố, xây cất cư xá, nhà ở.

Ngoài ra còn xây dựng nhiều xí nghiệp tại Thủ Ðức và Khu Kỹ Nghệ Sài Gòn-Biên Hòa. Về quân sự, để đối phó với Cộng Sản miền Bắc đang xâm lăng miền Nam, Tổng Thống Thiệu tiếp tục chiến lược dang dở của Cố Tổng Thống Diệm, qua Chiến Dịch Phượng Hoàng (1969-1970), sau trận Mậu Thân (1968) để bình định nông thôn. Nhờ vậy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đẩy lui Việt Cộng trở lại rừng núi, mật khu, đồng thời kiểm soát hầu hết dân chúng Miền Nam Việt Nam tại Cao Nguyên cũng như miền Ðồng Bằng từ Quảng Trị vào tới Hà Tiên. Tăng cường an ninh tại Khu Trù Mật, Dinh Ðiền, Ấp Ðời Mới với các lực lượng Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ và Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn. Cuối cùng Chính Phủ lại tiếp tục chương trình cải cách điền địa còn dang dở của Tổng Thống Diệm nhưng vấp phải sự lấn đất dành dân của Cộng Sản. Do trên, Chính Phủ lại phải xây dựng nhiều làng mạc mới trên các Quốc Lộ, để định cư dân chúng trong các vùng xa xôi bị giặc tạm chiếm, khiến đồng ruộng thôn xóm lại bị bỏ hoang, vì nhiều người về các thành phố sinh sống, lánh nạn.

Tóm lại từ ngày độc lập (tháng 7-1954) cho tới cuối tháng 4-1975, dù bị Hồ Chí Minh và Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế xâm lăng phá hoại không ngừng nhưng chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, cũng đã cố gắng kỹ nghệ hóa đất nước, mở rộng các xí nghiệp khắp nơi tại thủ đô, nhất là ngành dệt và chế biến thực phẩm, hóa học, dược liệu, điện và các loại máy móc với số lượng thống kê là 8132 cở sở lớn nhỏ.

Sài Gòn cũng là nơi tập trung tất cả cơ quan đầu não của Chính Phủ như các Bộ, Quốc Hội, Tòa Đại Sứ của các Phái Bộ Ngoại Giao. Tính đến cuối tháng 4-1975, Thủ Đô (Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh) với tổng số trên 4 triệu dân, là một trong những thành phố đẹp đẽ tráng lệ nhất thế giới, là một thị trường tiêu thụ to lớn nhất Việt Nam vì có một đại giang cảng thuận lợi, với số hàng hóa xuất nhập lên tới 7,5 triệu tấn hằng năm, đó là chưa kể tới Tân Cảng và Giang Cảng nhập Xăng Dầu tại Nhà Bè. Thủ Đô Sài Gòn còn có phi cảng quốc tế Tân Sơn Nhất, vô cùng tấp nập với hơn 1.070.000 hành khách đi về (năm 1970) với đầy đủ các hãng hàng không quốc tế, nên được mệnh danh là Chicago Châu Á. Riêng Hàng Không Việt Nam đảm trách các đường bay quốc nội, tại các phi trường tối tân vừa được thiết lâp ở Huế, Ðà Nẵng, Quy Nhơn, Pleiku, Banmêthuột, Ðà Lạt, Nha Trang, Tháp Chàm, Phan Thiết, Biên Hòa, Vũng Tàu, Cần Thơ, Phú Quốc, Mỹ Tho…

Sài Gòn là vậy đó, Việt Nam Cộng Hòa là vậy đó, thảm thay tất cả bị sụp đổ hoàn toàn vào trưa ngày 30-4-1975, qua lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh.

THÀNH HỒ (5/1975 - 4/2009), CÁI GÌ CŨNG CÓ

Ngay khi Sài Gòn vừa lọt vào tay giặc, tháng 5-1975 Việt Cộng lập Ủy Ban Quân Quản Thủ Đô và Ủy Ban Cách Mạng tại các tỉnh, ra lệnh phong tỏa ngân hàng và chiếm đoạt tất cả các xí nghiệp cả nước, công hay tư, từ lớn tới nhỏ. Bắt đầu từ đó, các xí nghiệp được điều hành bởi một thành phần quản đốc mơi, gồm toàn cán bộ Cộng Sản miền Bắc hay tập kết. Riêng chủ nhân thực sự của xí nghiệp thì giữ vai trò “cố vấn kỹ thuật.” Ðồng thời ra lệnh kiểm kê hết các cơ sở công nghiệp nhỏ và nhà buôn, nhưng ác liệt nhất vẫn là hai đợt cướp của, qua cái danh từ mỹ lệ: Ðánh Tư Sản Mại Bản.

Vào tháng 9-1975, Việt Cộng ra lệnh bắt giam hay quản thúc tại nhà, tất cả đại kỹ nghệ gia, thương gia, chủ cao ốc, khách sạn, nhà hàng, nhà in, tiệm sách báo… tất cả hơn 100 người. Họ bị đuổi ra khỏi cửa, sau khi tất cả tài sản gồm nhà cửa, xí nghiệp, xe cộ, tiền bạc, vàng ngọc... bị đảng trấn lột hết, cùng lúc là đợt đổi tiền đầu tiền. Cũng từ đó đồng bạc Việt Nam Cộng Hòa không còn giá trị và được đổi thành tiền Mặt Trận, tối đa mỗi gia đình được 200 đồng (tương đương 100.000 tiền Việt Nam Cộng Hòa). Theo Việt Cộng, miền Nam lúc đó có hai loại tư bản là tư sản thương nghiệp bao gồm đại thương gia, trung thương gia, chủ tiệm ăn, được đảng gán tội bóc lột nhân dân, đầu cơ tích trữ để trục lợi, nên phải có tội. Còn giới buôn bán nhỏ và các tiểu công nghệ là thành phần sản xuất có ích cho Xã Hội Chủ Nghĩa nhưng cũng phải được cải tạo để theo đúng đường lối của chế độ đề ra.

Từ thàng 3 đến tháng 5/1978, để tiêu diệt và xóa sổ những gì còn lại của nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975, Việt Cộng lại đánh tư bản miền Nam đợt 2 vào ngày 23-3-1978, vô cùng quy mô và ác liệt, chẳng những tại Thủ Đô Sài Gòn, mà ở khắp các thành thị từ vĩ tuyến 17 vào tận Cà Mâu, Rạch Giá, Hà Tiên. Lần này coi như vĩnh tuyệt, vì tất cả tài sản của người miền Nam, từ tiền bạc, vàng ngọc, nhà cửa, cơ sở thương mại, lều nước mắm, nhà máy xay lúa, ghe thuyền đánh cá, xe đò, xe vận tải và các loại xe nhỏ… đều bị đảng cướp giựt, tịch biên một cách công khai.

Tàn nhẫn hơn, đảng còn ra lệnh cho những nạn nhân tay trắng này, trong vòng một tháng phải ra khỏi Sài Gòn, để đi kinh tế mới. Riêng tại Sài Gòn, tính đến ngày 3-5-1978 đã có hơn 30.000 người, bị đuổi khỏi mái ấm gia đình và nơi chôn nhau cắt rốn, để vất vưởng tha phương tới các vùng gọi là kinh tế mới, được thiết lập sát biên giới Việt-Miên trong các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, An Xuyên, An Giang, Ðồng Tháp Mười, Châu Ðốc, Lâm Ðồng… hay gần hơn nếu còn chút tiền chạy chọt, sẽ được đưa tới các nông trường tập thể Lê Minh Xuân, Nhị Xuân, Thái Mỹ, Phạm Văn Cội 1 và 2, ở Củ Chi và Hậu Nghĩa.

Tóm lại ở đâu đồng bào cũng lâm vào tuyệt lộ, dù là công nhân tại các nông trường với đồng lương chết đói. Riêng chủ nhân xe đò, ghe bầu, tàu đánh cá, xe vận tải… được xem là thành phần tư sản dân tộc nên trở thành xí nghiệp công tư hợp doanh nhưng do chính phủ điều khiển, cán bộ đảng làm giám đốc, còn người chủ thật sự, thì lên chức cố vấn kỹ thuật. Tuy nhiên giới này còn được chút an ủi, là được cho phép ở lai Thủ Đô, có “hộ khẩu,” “tem phiếu” và hưởng quy chế “công nhân viên nhà nước,” lương từ 60-85 đồng bạc Hồ. Có một ít được lãnh lương đồng hóa chuyên viên, lương 105 đồng. Nhưng lỡ hết rồi, có không muốn cũng đành chịu. Sau rốt là những người buôn bán nhỏ, được đảng cho hành nghề trong các khu vực tập trung, với giá cả đã có sẵn.

Ngày 25-4-1978, Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng đã ký một nghị định tuyệt mật, mang số 78, quyết định thống nhất tiền tệ cả nước và được thi hành bắt đầu ngày 3-5-1978. Cũng Phạm Văn Ðồng ký thêm một nghị định ngày 31-3-1978, bãi bỏ tư thương chuyển vận hàng hóa từ nông thôn ra thành thị. Chính sách bế quan tỏa cảng, phong tỏa thành phố này, với mục đích làm tê liệt giao thông giữa các tỉnh, chia các vùng đất ở miền Nam của Việt Nam Cộng Hòa thành các quốc gia riêng biệt.

Tất cả theo đúng đề cương định hướng của Lê Duẩn, muốn biến mỗi huyện là một đơn vị kinh tế thời bình và là một Sô Viết Nghệ Tĩnh, một đơn vị chiến đấu trong thời loạn. Nhưng trên hết là phải cô lập Thủ Đô Sài Gòn với các tỉnh miền Nam, qua thiên la địa võng kiểm soát trên bộ cũng như đường thủy. Tóm lại chỉ mới mấy năm Sài Gòn bị mất tên, Việt Cộng đã đạt được mục đích cách mạng, là bần cùng hóa giới tư sản thủ đô, ăn mày hóa cả miền Nam, hủy bỏ nên kinh tế thị trường để thay thế bằng chính sách kinh tế hoạch định quốc doanh đem từ miền Bắc vào. Kết quả tất cả hàng hóa và sản phẩm tại các tỉnh, thị ngoài Sài Gòn, bị ứ đọng vì không xuất tỉnh được nên cuối cùng phải bán tháo bán đổ, rẻ mạt cho “Chính Phủ.” Từ đó đảng lại chở những thứ này về Sài Gòn, bày bán trong các cửa hàng, xí nghiệp, khu chợ của đồng bào vừa bị tịch biên, với sự độc quyền.

Nhưng vỏ quýt dầy có móng tay nhọn, kẻ cướp luôn gặp bà già, đó là một chân lý. Việt Cộng độc ác, bất lương, bạo tàn nhưng lại quá ngu si, luôn tưởng mọi người im lặng trước hành động thảo khấu của đảng và cán bộ, là đã đồng lòng và sợ chúng. Vì vậy chúng lại càng tham lam, hấp tấp, đem các luật lệ rừng rú thú vật của cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa, cùng với chính sách tập thể hóa cưỡng bách đất đai, để khống chế và nắm độc quyền kinh tế của người miền Nam ở thành thị cũng như nông thôn.

Tức nước vỡ bờ, Việt Cộng bị dội ngược vào tường, vì gặp phải sự chống đối của toàn thể đồng bào Việt Nam Cộng Hòa, chẳng những tại Sài Gòn-Chợ Lớn mà ngay cả nông thôn miền Nam. Hậu quả nông dân không bán nông sản cho đảng theo giá rẻ mat, khiến cho hệ thống thương nghiệp quốc doanh xập tiêm vì khan hiếm nhu yếu phẩm, làm cho giá cả tăng vọt. Một số lớn nông dân tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nại lý do sưu cao thuế nặng, nên tự ý bỏ ruộng đất hoang không thèm canh tác. Do đó nạn chợ đen, chợ trời phát triển khắp nơi với tình trạng lạm phát, dù khắp nơi đầy nghẹt các trạm kiểm soát nhưng hàng chui từ ngoài vẫn đổ về Sài Gòn, đủ cả gạo, thịt, cá, rau, quả, vì đã móc ngoặc, hối lộ, bỏ chân với công an và cán bộ địa phương.

Tình trạng dân đói lại càng bi thảm hơn, trước thảm cảnh của những gia đình bị đuổi lên vùng kinh tế mới, nhất là ở các chốn ma thiêng nước độc sát biên giới Việt-Miên, do đói rách, tật bệnh, nên lại liều chết quay về Sài Gòn, sống cảnh đầu đường xó chợ. Trong số này, phần lớn là thành phần Quân, Công, Cán, Cảnh và cả thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Vì Cộng Sản Hà Nội luôn coi Miền Nam như một thuộc địa, nên khi vào được Sài Gòn nhờ may mắn, đã vơ vét hết các chiến lợi phẩm về Bắc, kể cả những nguyên vật liệu rất cần thiết cho sự phát triển nền công kỹ nghệ Việt Nam. Từ sau năm 1977, hầu hết các cơ sở công kỹ nghệ luyện kim, dệt, chế biến thưc phẩm tại Sài Gòn và vùng phụ cận, lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng vì nguyên liệu đã kiệt quệ. Ðây cũng là thời gian Việt Cộng bị thế giơi bên ngoài, từ Mỹ, Trung Cộng, Nhật, các nước trong Hiệp Hội Ðông Nam Á cho tới Ấn Ðộ, Liên Âu tẩy chay và quay mặt, trước những hành động thực dân trong nước, cũng như đã công khai làm nô lệ cho Liên Bang Sô Viết tại Châu Á.

Ngày 9-6-1980, Trương Như Tảng, Bộ Trưởng ma trong chính phủ dỏm, của cái mặt trận ba làng Giải Phóng Miền Nam, chạy thoát ra ngoài, tới Ba Lê họp báo, tố cáo Cộng Sản Hà Nội tham tàn bạo ác, ngu dốt rừng rú, nên chỉ mới một thời gian ngắn cai trị miền Nam, đã làm cho Sài Gòn sụp đổ toàn diện về kinh tế, thiếu thốn lương thực và tệ nạn tham nhũng bất công cửa quyền, đã khiến cho hầu hết các công ty hợp doanh còn lại khánh tận vì thuế theo luật rừng. Cũng nhờ đảng quyết tâm cải tạo kinh tế, mà dân nghèo càng nghèo, bất công bất bình đẳng xã hội càng trầm trong gấp trăm lần trước ngày 30-4-1975, vì sự ham muốn hưởng thụ vật chất tiện nghi, của cán bộ đảng từ trên xuống dưới, nghĩa là chỉ cần có tiền đút lót, thì việc gì cũng tốt, cũng xong.

Ðể lấy lại niềm tin cứu đảng, ngày 3-2-1980, nhân kỷ niêm thành lập 50 năm Đệ Tam Cộng Sản Quốc Tế, Tổng Bí Thư Lê Duẩn đòi diệt trừ nạn tham nhũng, hối lộ, lạm quyền và hứa tận diệt, qua chính sách “ba lợi ích” lại tạo cơ hội thêm cho cán bộ đảng tham ô lộng quyền, móc ngoặc với gian thương đem hàng hóa trong các cửa hàng của chính phủ bán ra thị trường chợ đen. Ba Tàu Chợ Lớn lại trỗi dậy, đóng vai trung gian các nghiêp vụ mua bán chui, giữa các Ba Tàu Hồng Kông, Ðài Loan, Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai, bằng cách chở hàng hóa bằng thuyền tàu tới tận hải phận Việt Nam, để đổi chác vàng, Mỹ Kim hoặc các thổ sản Việt Nam như gạo, tôm cá đông lạnh… Nhờ các dịch vụ chui béo bở này, mà các cán bộ đảng giàu to nhanh chóng, trở thành những tư bản đỏ, trong “thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa.” Cuộc dành ăn , đã khiến hai phe Giáo Điều và Canh Tân trong đảng, thanh toán công khai đẫm máu tại Sài Gòn, làm Bắc Bộ Phủ phải xét lại vì đã nóng mặt, trong cảnh trâu cột nhìn trâu ăn, cũng thấy thèm.

Chiến cuộc đẫm máu giữa Tư Bản Ðỏ Hà Nội và Sài Gòn

Cuộc đối đầu giữa hai nhóm tư bản đỏ Hà Nội và Sài Gòn, thật sự đã bùng nổ, sau kỳ Đại Hội Đảng lần thứ V (27 đến 31/3/1982), qua nhiều thay đổi chính trị nội bộ, khiến Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng, lại phải cải tổ nội các lần thứ ba (1980-1982), có 6 cán bộ Trung Ương Đảng bị loại khỏi Bộ Chính Trị, trong số này có Nguyễn Lam, Trần Phương, Ðinh Ðức Thiện, Nguyễn Thành Thơ và Võ Nguyên Giáp. Riêng Võ Văn Kiệt bị bứng gốc Thành Ủy Thành Hồ, về Hà Nội ngồi chơi sơi nước, trong chức vụ Phó Thủ Tướng kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước, kể cả tướng công an Mai Chí Thọ (mới theo “bác” về chầu tổ Mác Lê) cũng bị lung lay địa vị.

Phó Thủ Tướng Ðỗ Mười được đảng giao thi hành chính sách sửa sai tại Thành Hồ, với nhiệm vụ đánh tư sản thương nghiệp, trừng trị cán bộ đảng hủ hóa tham ô, bắt đầu thi hành vào tháng 5-1983. Mục đích cũng chỉ là triệt tiêu các cửa hàng IMEX tại các quận trong Thành Hồ, vì lúc đó tất cả hàng hóa xuất nhập đều do cửa hàng trung ương IMEX tại đưởng Nguyễn Huệ độc quyền. Cùng lúc Hà Nội ban hành nhiều sắc thuế nặng nề, đánh vào giới tiểu thương tại Chợ Bến Thành và các khu thương mại trong Quận Nhất, khiến cho nhiều cơ sở phải sập tiệm như Nhà Hàng Chí Tài, Tài Nam, Paris, Cola… đành hiến cho đảng, sau đó thành công ty hợp doanh.

Ðộc hiểm hơn, Ðỗ Mười còn mở chiến dịch đánh giới tư thương bán lẻ, hàng rong trên vệ đường, viện cớ chỉnh trang thành phố. Ðối với đồng bào có thân nhân nước ngoài, Ðỗ Mười ban lệnh hạn chế số quà cáp và quy định tiền nhận được, phải bỏ vào quỹ tiết kiệm. Hành động quái quỷ này, khiến cho ngoại viện của Việt Kiều tụt giảm trầm trọng, vì không ai muốn của mồ hôi nước mắt, lọt vào tay đảng. Trong dịp này, Ðỗ Mười đã thanh toán được nhiều ngàn tư bản đỏ, trong đó nổi nhất có Giám Đốc Xí Nghiệp Liên Hiệp Cửu Long, bị tịch thu trên 20 ký lô vàng ròng. Cùng với nhiều cán bộ đảng cao cấp tham ô trong các cửa hàng IMEX như Cholimex, Sidimex, Gidimex…

Mặc kệ cho đồng bào cả nước bất mãn vì sưu cao thuế nặng, lạm phát, khan hiếm thực phẩm, thất nghiệp và tham ô càng lộng hành, Hà Nội vẫn theo đúng đường hướng TÂN CHÍNH SÁCH (NEP) của Liên Sô đề ra, ban hành nghị quyết của Bộ Chính Trị trong phiên họp ngày 17-12-1984 để tập thể hóa đất đai miền Nam và kiểm soát tư thương. Thêm vào, là nghị quyết số 8-1985, bãi bỏ chế độ bao cấp, ấn định lại giá hàng “quốc doanh” gần bằng giá tại thị trường.

Cuối cùng là ÐỔI TIỀN MỚI lần thứ ba, vào ngày 14-9-1985, làm cho tiền Hồ lần nữa bị phá giá tới 90%, so với tiền trước. Ðây cũng là cơ hội để đảng Việt Cộng có cơ hội vàng ròng, đẽ ra chính sách buôn bán nô lệ mới trong thế kỷ XX, một mặt đảng đầy ải đồng bào mạt rệp vì bị cướp cạn tài sản qua ba đợt đánh tư sản và đổi tiền, tới các vùng đất ma thiêng nước độc, trên cao nguyên và sát biên giới để mở các đồn điền cao su, trà, cà phê được trả bằng lương công nhân chết đói. Nhưng quan trọng nhất là xuất người làm vật lao động, để đổi lấy ngoại tệ tại các nước Liên Sô, Ðông Ðức, Tiệp Khắc… mà theo thống kê đã có tới cả trăm ngàn người. Tuy nhiên tất cả kế hoạch của đảng hầu như thất bại hoàn toàn, dân chúng nghèo Sài Gòn vẫn bám trụ tại chỗ, mua hàng chui tại chợ trời, chợ đen để sống, mà không cần vào tem phiếu tại cửa hàng do chính phủ kinh doanh. Nền kinh tế chợ trời chợ đen phát triển lên tận mây xanh, giúp cho người nghèo tại thủ đô cũng như các thành phố lớn khác của miền Nam, khồng thèm đi kinh tế mới, mặc cho công an bộ đội hù dọa, bắt bớ và khủng bố.

Sài Gòn bây giờ cái gì cũng có

Như lời Tú Trinh quảng cáo, Sài Gòn bây giờ, qua danh xưng Thành Hồ cái gì cũng có, sau khi đảng Việt Cộng lâm vào đường cùng ngay lúc thành đồng Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Số và Ðông Âu tan rã và sụp đổ, cúp hết nguồn viện trợ nuôi sống Bắc Bộ Phủ. Ðói và gần chết, nên đảng Việt Cộng đành mở cửa, trải thảm đỏ chẳng những quỳ rước tư bản trắng, mà ngay cả kẻ thù không đội trời chung là Hoa Kỳ và Người Việt tỵ nạn khắp thế giới, một thời từng bị Hà Nội phỉ báng, chửỉ bới là những thành phần phản quốc, cặn bã của xã hội, trốn ra nước ngoài gái thì làm điếm, trai ăn cướp lưu manh, đâu có chừa ai, dù là kỹ sư, bác sĩ, tướng tá, nhà văn, nhà báo, kể cả sư, cha và me Mỹ, Pháp.

Cũng nhờ mở cửa cứu đảng, mà từ năm 1990 tới nay, Thành Hồ không những hóa rồng mà là xứ cáo, tưng bừng nhảy vọt qua tuyên truyền trên báo đảng và những luận điệu tâng bốc bợ đít của một vài tờ báo Việt ngữ và đài ngoại quốc có chương trình tiếng Việt, la làng quảng cáo dùm cho đảng Việt Cộng, nào là năm du lịch, năm vận động ngoại giao, năm điện khí hóa, năm thanh lọc hành chánh, năm chấn chỉnh kinh tế, rồi năm đối tác và giao lưu của Việt Kiều sau khi đã đi hết biển.

Nhưng tất cả những người về nước thăm nhà, kể cả những người già gần xuống đất, cũng ráng trở lại quê hương thứ hai để hưởng trợ cấp và tiện nghi, chứ có ai ngu ở lại hòa hợp, hòa giải với Việt Cộng để bị tham nhũng bóc trơ xương thịt? Sài Gòn là thiên đàng hạ giới của những Việt Kiều tị nạn Cộng Sản, một thời liều chết bỏ nước ra đi tới xứ người, qua bao năm cầy tóe lửa, làm hộc máu, tìm đủ mọi cách lường gạt chính phủ lẫn đồng hương để có nhiều tiền, rồi vai vác bị bạc kè kè, ngạo nghễ như Simonov hay Don Quichotte, to tiếng rằng ta là Việt Kiều, ăn chơi xả láng, vung tiền qua cửa sổ, tại các sòng bạc ôm, karaoké hít, mát xa lắc, hớt tóc đôi… cho tới khi bị trấn lột sạch túi. Lúc đó Việt Kiều ta lại trở lại Mỹ và mọi nẻo đường hải ngoại, tiếp tục cầy, gạt, khóc lóc với các chính phủ bản địa để có tiền tiếp và trở lại quê nhà, vung tiền qua cửa sổ, trả thù dân tôc, mà trước khi được vượt biển tìm tự do, không có dịp.

Và như thế Thành Hồ cái gì cũng có, bách chiến bách thắng lừng lẫy nhất vẫn là nạn băng đảng “Mafia” Việt Cộng, đứng đầu là chủ soái Năm Cam nghe nói đã bị tử hình tại pháp trường Thủ Ðức, vào một buổi sáng mịt mù sương khói, tử tội bị trùm đầu, còn dân chúng chứng kiến thì đứng nhìn rất xa, nên có ai biết đâu mà mò? Băng đảng trộm cướp hoành hành cả nước, chẳng nhửng tại Hà Nội mà ngay tại Sài Gòn, nơi nào cũng có và đây là một trong những tai ương thảm khốc nhất trong cận sử thời Hồ. Nhờ sự bao che của cán bộ đảng, từ trung ương xuống tới khu phố, Sài Gòn có tới 39 băng đảng trộm cướp, suốt ngày kiểm soát sinh hoạt của người dân lương thiện, khắp phố phường, xí nghiệp tới các trung tâm buôn bán tại các chợ Bến Thành, Bàn Cờ, Hòa Hưng, Xóm Củi, Kim Biên, An Ðông, Thị Nghè, Gò Vấp, Tân Ðịnh, các bến xe Miền Trung, Lục Tỉnh, Bình Triệu, Chợ Lớn mà đối tượng chính là Việt Kiều, Ngoại Kiều

Thành Hồ nói riêng, đảng Việt Cộng nói chung ngày nay, đứng đầu thế giới về quốc nạn tham nhũng, như Phạm Trần đã viết “tham nhũng Việt Nam nay thở ra như khói.” Tham nhũng dám bán cả đất biên giới, lãnh hải, đảo và vận mệnh của dân tộc Hồng Lạc cho Trung Cộng, Nga, Mỹ, bọn Tàu Trắng, Nhật, Ðại Hàn, Liên Âu, Thái Lan để lấy vàng bạc chuyển ra ngọai quốc, chờ ngày đổi đời sắp tới, có được đời sống an nhàn như bọn khoa bảng trí thức, chính trị gia, tướng tá Việt Nam Cộng Hòa, đâm sau lưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trốn chạy ra ngoại quốc trước ngày miền Nam thất thủ 30-4-1975.

Võ Văn Kiệt rồi Phan Văn Khải, từng được Lê Duẩn, Ðỗ Mưới giao trách nhiệm thanh tra và bài trừ tham nhũng nhưng làm sao dẹp được vì tham nhũng là do bọn chúng bày ra và nếu không nhờ vào những tệ đoan này, ngày nay các cán bộ cao cấp của đảng trong Bắc Bộ Phủ, mà danh sách giàu nhất thế giới vẫn là Võ Văn Kiệt, Ðỗ Mưới, Phan Văn Khải, Trần Ðức Lương, Lê Ðức Anh, Nguyễn Tấn Dũng, Nông Ðức Mạnh, Tôn Nữ Thị Ninh, Nguyễn Minh Triết và “bác” Năm Cam, nghe nói đã chết nhưng vàng ngọc đô la đã chuyển hết ra nước ngoài.

Thành Hồ hiện nay đang bách chiến bách thắng trước cơn sốt Karaoke, Parabol, phim Sex, bán buôn bằng cấp giả và những quảng cáo du lịch, cái gì cũng có. Sài Gòn trước tháng 4-1975 là nơi buôn Phật bán Chúa, nhờ vậy Cộng Sản Đệ Tam mới có cơ hội nhuộm đỏ hoàn toàn Việt Nam. Thành Hồ sau thang 5-1975 là thị trường tiêu thụ cổ vật Việt Nam và là chốn kinh doanh thần linh, ma quỷ, có như vậy đảng mới lập chùa để đúc tượng Hồ Tặc đem lên bàn thờ, ngồi chễm chệ chung với Phật, Ðức Quốc Tổ Hùng Vương.

Tại Huế, qua những danh từ hoa mỹ như Festival hay trùng tu, để có cớ phá hoại và ăn cắp cổ vật trong Thành Nội, thời vua Gia Long và Minh Mạng nhà Nguyễn. Thủ phạm trộm đồ cổ chính là Nguyễn Khoa Thanh (chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Huế). Ðây là những cổ vật lịch sử của dân tộc, được cán bộ trong đội kiểm kê tẩu tán, rồi đem bán cho một công ty Hòa Lan có tên Recherches Historis, trong những ngày đấu giá vào tháng 4-1994, vơi 239 món hàng trị giá 5 triệu đô la nhưng bán vội vàng, đổ tháo nên chỉ có 56.000 Đô La Mỹ. Sự kiện trên đã làm cho cơ quan UNESCO thất vọng và bất lực nhưng ai làm gì được Việt Cộng? Nay qua bệ dựa vững chắc của siêu cường Mỹ, ma tuý từ Tam Giác Vàng, được Hà Nội thông đồng với Lào Cộng, để liên hệ với trùm Khum Sa, qua phương tiện của quân đội, công an biên phòng, chuyển thẳng tới Ðà Nẵng, để phân phối khắp các nước Ðông Nam Á và tràn ngập Thành Hồ.

Nghèo đói tuyệt vọng, đã đẩy mọi tầng lớp đồng bào vào cuối đường hầm, nên họ chỉ còn biết tin vào những may rủi cuộc đời, như rủ nhau đi tìm vàng ở Hiếu Liêm (Phước Long), Tà Pao (Bình Tuy), Ba Thê (An Giang) để mong một sự đổi đời. Ðây cũng là cơ hội để cho bọn kinh doanh thần thánh ma quỷ hốt bạc, qua những màn thông điệp, phán quyết, sấm truyền. Trong khi đó đâu đâu cũng có những ông bà cô cậu, thần thông quảng đại, chuyên môn chữa bệnh bằng bùa phép, qua các bậc tu hành lừng danh như Ðại Ðạo Tiên Cô, Thầy Bùa, Thầy Mo, Thầy Tư Nước Lạnh… thầy cô nào tiếng tăm cũng lừng lẫy, chẳng những ở thủ đô mà còn vang dội cả nước. Tất cả đều là sản phẩm của thời mở cửa đổi mới, khiến cho người dân chẳng những đói lạnh mà còn mất hết niềm tin cuộc đời, nên phần lớn bị bệnh tâm thần, mộng du, tỷ lệ người bệnh chỉ thua A Phú Hãn mà thôi.

Tóm lại Thành Hồ ngày nay cái gì cũng có, xoay tròn qua 3500 dịch vụ với những bàn tay nối dài, chằng chịt không khác gì hệ thống đường mòn mang tên “bác” ngày xưa. Ðã cướp cạn hết tài sản của miền Nam trong nước, qua ba đợt đánh tư sản và đổi tiền, đảng Việt Cộng qua Ðỗ Mười, còn bày ra chiến dịch “Kiều hối,” theo pháp lệnh ký ngày 22-9-1993 để móc túi mấy triệu nạn nhân vì đảng, phải vượt biên vượt biển tị nạn sống đời lưu vong khắp mọi nẻo đường thế giới. Nhưng muốn là một chuyện, nên dù Việt Cộng đã lập nhiều cơ sở kinh tài ở hải ngoại như Vinexco, Far East Express, VN Express.. để móc nối tuyên truyền đồng bào nhưng phần lớn hằng tỷ bạc, được gởi về nước cho thân nhân qua con đường chui, chứ đâu có ai ngu gửi chính thức, để đóng cho đảng tới 4 loại thuế.

Thua bài cào, Việt Cộng gỡ me qua ngành du lịch mà cao điểm bắt đầu từ năm 1995, với sự hợp tác của các công ty du lịch ngoại quốc như EW và A.I.O Tour (Japan), Ðài Loan, trụ sở đặt tại Imex cũ, đường Nguyễn Huệ, đã bị cháy ngày 14-10-1991. Kèm theo trong dịch vụ béo bở này của Hà Nội, là dịch vụ kinh doanh phim SEX. Trong khi đó, Thành Hồ cũng tưng bừng nạn tẩu tán vàng, đô la trong nước, ra ngoại quốc nhất là các nước Ðồng Nam Á, qua biên giới Hoa Việt, Nghệ An, Tây Ninh, Long An, Châu Ðốc, tất cả đều của bọn tư bản đỏ, cán bộ gộc, chuyển ra ngoại quốc rửa thành tiền sạch, trước khi gửi tiếp vào các ngân hàng quốc tế, nhất là Thụy Sĩ hay chuyển ngân cho Việt Kiều tại Hoa Kỳ, Úc, Canada, Châu Âu để mở tiệm vàng, ra báo, mở đài phát thanh, tàu đánh cá, mua nhà. Rồi thì những dịch vụ làm giấy tờ giả mạo, trong các chương trình O.D.P., H.O., Con Lai, Kết Hôn tràn lan khắp miền Nam, nhất là tại Thành Hồ giúp cho một số lớn cán bộ và gia đình Việt Cộng, sau khi tham nhũng tom góp được một tài sản lớn, mua giấy tờ giả mạo, cưới vợ chồng giả, để trốn ra hải ngoại hưởng thụ..

Phú quý sinh lễ nghĩa, giàu có thì phải xài tiền, không những chỉ có cán bộ đảng, tư bản đỏ, bọn thương buôn tư bản ngoại quốc, mà cả Việt Kiều bốn phương về, vung tiền qua cửa sổ, để phanh thây xé xác những người con gái, đàn bà nghèo vô tội Việt Nam, vì tiền phải bán thân cho thú vật tại các điểm ăn chơi hay trá hình ở các khách sạn hạng sang Bông Sen, Bến Thành, Cửu Long, Hướng Dương, Hải Âu, Hoa Sen, Lê Lai, Hữu Nghị, cùng lúc với những trung tâm du hí Bình Quới 1-2, Ðầm Sen, Hồ Kỳ Hòa và Suối Tiên. Nơi nào dù ở trong khách sạn hay ngoài trời, qua thân xác của người phụ nữ Việt Nam, đảng tha hồ trấn lột những con thiêu thân, quyết lòng vung tiền, để trả thù dân tộc.

Thành Hồ cái gì cũng có mà bó tay không thể giải quyết được, vẫn là tham nhũng, tệ đoan xã hội và nạn nhân mãn. Ðể giải quyết, đảng theo “Mao-Ðặng-Giang-Hồ,” ban hành chính sách cai đẻ, từ sau trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, do Ðại Tướng Anh Hùng Ðiện Biên là Võ Nguyên Giáp phụ trách, qua chức vụ Phó Thủ Tướng đảng Việt Cộng. Theo lệnh, mỗi gia đình chỉ được tối đa 2 con, sau đó được phá thai hợp pháp. Ðối với Hoa Kiều từ trước tới nay tại thủ đô, vẫn sống riêng biệt như một nước khác trong nước Việt Nam, ở Chợ Lớn theo thống kê năm 1958 đã có 600.000 người, chiếm tỷ lệ 75% Hoa Kiều cả nước. Sau ngày 30-4-1975, Hoa Kiều Chợ Lớn lập tức phản Ðài Loan, theo Trung Cộng để dựa hơi hù Việt Cộng nhưng vẫn bị đảng hốt sạch qua ba lần đánh tư sản và đổi tiền. Sau đó Hoa Kiều càng thê thảm hơn, khi Việt Cộng và Trung Cộng trở mặt, một số nghèo bị đi kinh tế mới, trong lúc những kẻ có tiền chung vàng cho đảng để được chính thức xuất ngoại, lên tới 250.000 người, trong đó người Tàu chiếm tới 85%. Nhưng Hoa đi bớt, đã có Liên Sô và các nước Ðông Âu đổ xô vào Thành Hồ từ năm 1977 nhưng tập trung tại các căn cứ cũ cuả Mỹ ở trong phi trường Tân Sơn Nhất, kể cả du hý cũng được dành riêng ở các khách sạn sang trọng như Cửu Long (Majestic), Thống Nhất (Carevelle), Hữu Nghị (Palace) và Bến Thành (Rex).

Nhưng Tàu đi rồi Tàu lại về, chẳng những Hoa Kiều mà còn đủ Tàu Trắng, Tàu Đỏ. Tất cả đang làm chủ Thành Hồ như trước tháng 4-1975 đã khống chế mọi sinh hoạt của Sài Gòn. Ba mươi hai năm qua, Thành Hồ là thế đó, cho nên người Việt dù có thương nhớ Sai Gòn tới đứt ruột, vẫn không ai muốn nhắc tới cái tên Hồ Chí Minh đang hiếp dâm Hòn Ngọc Viễn Ðông, dù biết chắc, sớm muộn gì Thủ Đô yêu dấu cũng được mang tên Sài Gòn như tiền nhân ta đã gọi từ hơn ba trăm năm trước .

Ngày 29-4-2008, toàn thể Bắc Bộ Phủ trải thảm đỏ để đón “Ðuốc Máu” của giặc Tàu tới Sài Gòn ra Hoàng Sa, trong sự căm phẫn của đồng bào cả nước. Nhưng trắng trợn nhât là Việt Cộng đã công khai rước voi Tàu vào đầy hai tỉnh Lâm Ðồng và Quảng Ðức qua cái gọi là “khai quặng Bauxit” đã khiến Người Việt trong và ngoài nước thực sự nổi giận vì thấy đất nước mình sắp bị Trung Cộng chiếm đoạt và đồng hóa. Bao nhiêu nỗi công phẫn căm thù chất chứa từ 34 năm qua, như kho xăng đang mở nắp, chỉ chờ có một que diêm nhỏ cũng đủ bộc phát, thiêu rụi cái chế độ độc tài bạo tàn nhất trong dòng Việt Sử.

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng Tư 2009

MƯỜNG GIANG