Tuổi thơ & Con đường đi học Print
Tác Giả: Lương Thư Trung   
Thứ Ba, 21 Tháng 2 Năm 2012 08:00

 Nhớ ngày ấy, xa xưa lắm, chị tôi nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng vào dịp tựu trường. Một tay tôi nắm tay chị, còn tay kia cầm ổ bánh mì, mắt tôi cứ nhòe nước mắt...

 

Cánh đồng ruộng vào tháng ba khô chan chát. Những luống đất cày như những lượn sóng nối tiếp úp mặt vào nhau làm thành những căn nhà cho mấy chú dế mun, dế lửa đầy đồng. Tiếng dế thi đua nhau gáy từ những căn nhà khuất lấp dưới những luống cày như vậy vang vang thánh thót giữa những cánh đồng mùa nắng, đã làm cho bầu trời cao rộng với những ánh sao nhấp nháy trong màng mắt vì nắng gắt bỗng dịu mát lại với lòng đam mê bắt dế của tuổi ấu thơ...

Tôi mê dế từ những ngày chưa biết đi học. Những ngày tháng ấy hồn nhiên lắm! Sáng sớm vừa chợp mắt thức dậy là chạy ra cánh đồng, tay cầm cái hộp bằng thiếc mà mẹ tôi để dành đựng kim chỉ vá may. Lần mò theo tiếng dế gáy, hai tay bé nhỏ của đứa trẻ lật những mảng đất cày ngược lại để tìm những chú dế đang ẩn núp đâu đó. Nào là dế lửa với đôi cánh mỏng màu đỏ rực như than hồng đang cháy, có cặp râu dài. Nào là những chú dế mun màu sắc đen tuyền lấp lánh như những cục than đước, loại than mà tôi còn nhớ mỗi lần nướng bánh bông lan, mẹ tôi thường mua về để dành năm ba ký, nên lúc nào cũng có dưới khuôn bếp. Rồi những chú dế trụi với thân mình trần trụi không có một tí cánh mỏng che thân; đôi lúc tụi nhỏ chúng tôi gọi loại dế này là dế mọi vì nghe người lớn cũng thường gọi như vậy. Nhưng có lẽ mấy chị dế mái là hiền từ. Chúng tôi không nghe dế mái gáy bao giờ và cũng không biết đá như dế trống, nên chúng tôi không bao giờ bắt dế mái làm gì. Những chú dế được bắt bỏ vào cái hộp thiếc là những con dế tuyển, có cái đầu to với đôi hàm bén ngót, có đôi râu dài lóng lánh màu đen như những sợi tóc mai, có đôi cánh mỏng mà mỗi lần dế hăng lên đôi cánh ấy được căng lên như cái loa phát ra những tiếng gáy “reng reng” làm cho đối phương hoảng sợ, có đôi chân sau vừa nhỏ, vừa bén chắc, vừa nhanh nhẹn... Khi mang dế về nhà, tôi len lén đi vào trong bếp rồi tìm mấy cái lon sữa bò mẹ tôi thường để trong chiếc giỏ đệm treo tòn ten nơi chái bếp. Căn nhà mới của mỗi chú dế là cái lon sữa bò cũ đó. Tôi cẩn thận cho vào một vài cục đất nhỏ, mấy ngọn cỏ chỉ non cho dế ăn và đậy nắp lại bằng miếng giấy dày có khoét vài lỗ nhỏ cho không khí lọt vào để dế thở. Những lon dế giấu kín dưới nhà bếp, trong kẹt tủ mà rồi cũng gáy vang vang đầy nhà. Và tôi lại mê dế cho tới những ngày đi học sau này ở trường làng.

 Đá dế

Nhớ ngày ấy, xa xưa lắm, chị tôi nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng vào dịp tựu trường. Một tay tôi nắm tay chị, còn tay kia cầm ổ bánh mì, mắt tôi cứ nhòe nước mắt. Lần ấy tôi cứ dằng tay chị tôi lại, không chịu vào lớp. Dường như đứa bé nhà quê nào ngày đầu ôm tập đến trường cũng có cùng trạng huống như tôi. Vừa lạ, vừa sợ, vừa nhút nhát là đặc tính của những đứa bé nhà quê lần đầu đi học đến dễ thương nhưng đôi lúc cũng làm cho người lớn nổi giận vì cứ khóc thút thít hoài dỗ không chịu nín. Thế rồi tôi cũng phải vào lớp học với lời dỗ dịu ngọt của chị tôi nhưng đôi mắt trẻ thơ đầy nước mắt cứ đăm đăm nhìn ra ngoài sân trường nơi chị tôi đang chờ tôi ngoài cổng. Như vậy là tôi bắt đầu đi học từ ấy, năm tôi lên bảy tuổi. Vị thầy giáo dạy cho tôi những mẫu tự A, B, C... đầu tiên là thầy Cầm. Ngày trước ở nhà quê, trong xóm ngoài làng người ta xưng tụng với thầy giáo bằng tên thật kèm với hai chữ “thầy giáo” hoặc chữ “thầy” gọn lỏn nhưng đầy vẻ kính trọng mặc dù không gọi thầy với cả tên lẫn họ. Ví như, thầy giáo Ngân, thầy Chánh, thầy Nhì, thầy Trang, thầy Cầm một cách thân tình mà quí trọng. Dù gặp các thầy bất cứ ở đâu, bất cứ trong trường hợp nào cả phụ huynh cùng học trò đều lễ phép cúi đầu chào thầy một cách kính cẩn, trọng nể.

Tôi còn nhớ ngôi trường làng bé nhỏ của tôi gồm ba lớp học nằm lẩn khuất dưới bóng cây dầu cao lêu nghêu. Những cây xoan tây bông trắng tỏa hương thơm, những hàng phượng vĩ xanh quanh năm phía trước sân trường, mùa hè nào cũng nở những chùm hoa đỏ rực làm cho sân trường luôn luôn mát rượi. Mái trường bằng lá tàu, một loại lá dừa nước được xé ra làm đôi bắt đầu từ ngọn lá. Vách trường vừng cao ngang ngực, cũng bằng loại lá dừa nước nhưng những phiến lá mỏng được chằm lại với những sợi lạt cờ bắp bằng ngọn dừa nước. Phía trên là mặt khại với những miếng tre đóng thành những hình thoi được sơn màu đỏ sậm.

Ngôi trường của tôi nằm trên nền cao của ngôi chùa Miên bỏ hoang lâu đời. Phía bên kia con rạch Vàm Nha là ngôi chùa Kỳ Viên với vị sư trụ trì già đức độ mà dân trong làng quen gọi với vẻ tôn kính “Thầy Kỳ Viên”. Mỗi sáng, mỗi trưa vào giờ ngọ, mỗi chiều vào giờ công phu, tiếng chuông chùa ngân nga len lỏi qua từng kẽ lá vẳng đưa đến lớp học như những âm thanh quen thuộc mỗi ngày chạy tràn vào lớp học trường làng.

Tuổi thơ của tôi thật hồn nhiên với những ngày mới đi học. Sáng nào, mẹ tôi cũng nấu sẵn nồi cháo trắng với vài khứa cá lóc kho khô để cho tôi ăn lót lòng trước khi đến trường. Mẹ tôi căn dặn con ráng học vì thầy giáo Ngân khó lắm và cũng đánh học trò bằng roi mây lớn bằng ngón tay. Thật ra, đó chỉ là lời căn dặn thường lệ của mẹ; nhưng tận trong lòng là mẹ tôi cưng con, muốn cho con mình là đứa con ngoan ngoãn và siêng học. Mỗi ngày tôi thường đi học theo con đường làng sầm uất rợp bóng những cây xoài, cây vú sữa với một bên là bờ sông, một bên là những căn nhà sàn cao khỏi đầu như một nét riêng biệt về nhà ở của vùng quê ngoại tôi hầu tránh những tháng nước ngập lụt vào mùa mưa. Bận đi, tôi phải đi bộ qua cầu nhà lầu. Nơi đây là ngôi nhà lầu cao của một người Tàu mà cũng là địa chủ vùng Bình Hoà này. Lúc bấy giờ chỉ còn lại nền gạch vụn hoang phế với những cây thù lù, dây nhãn lồng, dây bìm bìm, hắc sửu mọc đầy cùng bờ tường phía trước mặt cao lêu nghêu với nhiều viên đá hoa cẩn đầy, những bậc tam cấp, cửa ngõ với hai trụ hai bên để hai ngọn đèn Hoa Kỳ như di tích một thời hưng thịnh của một ông chủ ruộng vùng đồng bằng.

Vào tháng nước đổ, dưới dạ cầu là dòng nước chảy xiết đầy những con cá lòng tong mương, những con cá ngựa với chiếc kỳ đỏ au lội ngược nước rượt đuổi mấy chú cá lòng tong bay làm cho dòng nước văng tung tóe như những nụ cười đùa giỡn của loài cá đầy những chiếc xương nạng này; một loại xương mà mỗi lần mẹ tôi mua loại cá này về nấu canh chua thường nhắc nhở chị em tôi ăn coi chừng mắc xương. Nhớ có lần ông nội tôi bị mắc loại xương cá ngựa mà không cách gì lấy xương ra được. Chạy thầy đối đế nhưng cái xương nạng dài thượt vẫn còn nằm trong cổ họng mấy ngày. Sau cùng ông tôi bảo ra tiệm thuốc bắc mua vảy con trúc, về đốt thành than rồi tán nhuyễn và dùng ống trúc vạt mỏ vịt, để tro của vảy con trúc vào ống mà thổi vào miệng. Vậy mà ông tôi sặc ra được cái xương nạng con cá ngựa dài có tới hơn ba phân mắc ngay thực quản mấy ngày trời.

Qua khỏi cầu nhà lầu, tôi theo mấy đứa bé trong xóm lũ lượt đi trên con đường làng dài hơn hai cây số như vậy đi ngang ngôi chùa Tân An Tự với cột phướn cao trước sân chùa treo lủng lẳng lá phướn màu đỏ dài chấm đất vào những ngày rằm lớn. Bến chùa là chiếc cầu mát lợp bằng ngói âm dương de ra dòng sông bên gốc bồ đề cổ thụ um tùm những tán lá xanh quanh năm. Nhớ có lần đi học còn sớm, chúng tôi rủ nhau ghé lại chùa xem con qui nằm nơi hậu liêu, xem ông Phật Mười Tám Tay, ông Tiêu le lưỡi dài. Chúng tôi ra phía hông chùa lượm những bông mận, bông lê thơm một mùi thơm thật ngạt ngào làm trái vụ bỏ đầy cặp. Hồ sen phía sau chùa nở những cánh hoa trắng với nhụy hoa vàng vượt lên trên nền lá xanh tròn che khuất mặt nước. Rải rác mấy gương sen non đầy hạt hướng mặt lên nền trời cao như những đóa hoa quỳ hướng mặt về vầng thái dương. Năm ba ngọn tháp hình lục giác cao nhiều tầng là những ngôi bảo tháp mà bên trong là xác thân trần phàm của các sư cụ trụ trì chùa này đã viên tịch. Điều đó cho thấy ngôi Tân An Tự này là ngôi cổ tự, đã có từ lâu lắm rồi với phong cảnh xung quanh thật là u tịch, trang nghiêm.

Con đường đến trường học của tôi còn phải đi qua cái cua Vàm Nha với căn nhà của “ông Kiên khùng”, bao bọc chung quanh bởi những cây xoan tây mọc không theo hàng lối nào giống như những loại cây hoang dại.

Sở dĩ trong xóm gọi ông với cái tên không thanh bai và ít kính trọng như vậy vì ông bị bệnh tâm thần khá nặng. Ông Kiên lại sống một mình trong căn nhà lá lụp xụp với một con chó phèn sủa nồ nồ mỗi khi có ai đi ngang. Cứ mỗi lần đi ngang qua cua quẹo này, mấy đứa học trò nhỏ chúng tôi nhắm mắt chạy thí mạng nhiều lúc muốn hụt hơi, mặt tái xanh không còn chút máu vì sợ ông Kiên mà cũng sợ con chó phèn của ông nữa. Tiếng đập thình thịch của trái tim trẻ thơ cứ kéo dài đến khi vào lớp học. Lần nào cũng như lần nào, tôi không bao giờ dám đi ngang ngôi nhà ủm sụp này một mình, mà phải chờ các bạn khác cùng đi, vậy mà đứa nào cũng sẵn sàng co giò chạy như trối chết... Sau này “ông Kiên khùng” chết khô trong căn nhà dột nát ấy càng làm mấy đứa học trò nhỏ chúng tôi càng sợ ông Kiên về hiện hình, le lưỡi đứng núp ngay ngã ba đường, nên càng âu lo thêm gấp bội phần.

Từ cua quẹo Vàm Nha này, một con đường đất nhỏ cặp bờ sông dẫn về chợ Cần Đăng, đi ngang một sóc Miên với những căn nhà sàn cao lêu nghêu mang đầy dáng vẻ đặc biệt của người Miên vùng Tri Tôn (Xà Tón). Còn một con đường rải đá xanh lấy từ vùng Núi Sập nằm giữa thửa ruộng gò đầy cỏ chỉ là con đường dẫn về ngôi trường Sơ Đẳng Tiểu Học Vàm Nha, nơi mà lần đầu tiên tôi bắt đầu những bài học vỡ lòng, mở cái dốt, cái ngu của tuổi ấu thơ.

Đường đến trường

Con đường đi học của tôi không phải luôn luôn theo con đường khô ráo như vậy. Vào tháng nước ngập, con sông chảy ngang qua làng dâng lên cao, nhiều lúc tràn qua con đường đất cuồn cuộn như thác. Dòng nước trong leo lẻo đến đỗi chúng tôi nhìn rõ nhiều bầy cá lòng tong, cá linh rượt nhau rần rần trong nước. Thường thường những chỗ bị nước dâng ngập như vậy bà con hay lấy chà tre, nhánh me nước rào lại vì sợ người qua lại làm đất bị trôi lở. Tuổi thơ của tôi phải đi qua những con đường ngập lụt như vậy để đến trường, nhiều lần bị té quỵ dưới nước, quần áo, cặp vở bị ướt mem như chuột lột. Khi nước dâng ngập lên không còn đi bộ được, chúng tôi cùng nhau đi học bằng xuồng. Có khi chị tôi đưa hoặc quá giang những đứa bạn cùng xóm có xuồng từ nhà đi xuyên qua cánh đồng ngập lụt. Trên cánh đồng nước tháng Tám, tháng Chín những thân lúa mùa nặng mình xiên xiên theo chiều gió nằm rạp mình khi lườn xuồng lướt qua tạo ra tiếng cọ sát rào rào, một loại âm thanh quen thuộc thân thương của những ngày thơ ấu chốn thôn quê. Ngồi trên xuồng nhưng tay tôi lúc nào cũng rà rà trên mặt nước vớt vài cọng rong, ngắt một bông súng ma vừa trờ tới be xuồng hoặc một ổ nhện trên lá lúa nào đó gần be xuồng mà trong lòng đầy thích thú. Chị tôi rất cưng em, nên tôi chưa lần nào bị chị tôi rầy la bao giờ.

Vào mùa khô, dạo tháng Hai, tháng Ba, chúng tôi không đi qua con đường làng để đi học, mà lại lội băng qua cánh đồng lúa mùa vừa gặt xong vào tháng Chạp, tháng Giêng. Con đường mòn như con trăn ngoằn ngoèo từ vườn tre của ông ngoại tôi dẫn về con lộ đá mà những cộ lúa bông, những xe lúa hột do những đôi trâu, đôi bò đã ì ạch kéo kẽo kẹt qua cánh đồng này không biết bao nhiêu lần đã để lại. Mỗi lần có cơn gió thổi thốc qua hay những con “trốt” xoáy tròn cuốn tung bụi mù nhiều lúc làm tấm thân bé nhỏ của tôi cùng chiếc cặp đệm bàng muốn bay theo gió. Buổi chiều vào những ngày nắng ráo này, chúng tôi theo con đường liên tỉnh nối ngã ba Lộ Tẻ Mặc Cần Dưng với Tri Tôn để đi tắt về nhà. Con đường vắng ngắt, lâu lơ lâu lắc mới có một chiếc xe đò chở hành khách từ Long Xuyên về mệt mỏi chạy ngang qua. Hai bên lề đường là những cây thù lù, dây lăng trung, dây nhãn lồng, những bụi mắc cỡ đầy gai nhọn. Tôi còn nhớ những buổi chiều đi học về như vậy, chúng tôi ăn đầy bụng những trái thù lù chín đỏ, những trái nhãn lồng chua chua ngọt ngọt, những trái lăng trung ruột trắng mà giòn giòn mát miệng. Những chiếc lá mắc cỡ đang xòe ra, khi chúng tôi vô tình hoặc cố ý đụng nhẹ vào, những chiếc lá nhỏ của loài hoa dại e ấp xếp lại thật dịu dàng. Con đường lộ đá này còn đi ngang qua hàng thốt nốt khoảng mười gốc, cao vòi vọi với thân hình kịch cợm, sần sùi, tròn tròn bằng thân những cây dừa lão của ông ngoại tôi trồng cặp bờ mương. Ngọn gió buổi chiều giữa cánh đồng trống lướt qua tán lá thốt nốt cứng lúc nào cũng rào rào... Ở đó, chúng tôi lúc nào cũng nhận ra mấy chị cưỡng, chị nhòng lông đen lợt xen những chiếc lông cánh màu trắng, mỏ vàng tha những cọng rơm hoặc cỏ khô về lót ổ trên cao. Đôi lúc chúng tôi cũng bắt gặp vài cặp cu cườm tranh mái đá nhau phành phạch từ ngọn một cây thốt nốt khác. Còn mấy chị dơi ngủ ngày nữa chứ! Không đếm xuể, đen đặc, chúng đang đeo những móng chân cứng ngắc vào những tàu lá thốt nốt lao xao như chiếc chõng tre nhà quê kêu kẽo kẹt... Ở dưới quê, nông dân biết dơi thích ngủ trên những tàu lá thốt nốt, nên người ta chỉ dùng loại lá này làm chuồng để dụ dơi về ngủ lấy phân dơi bán cho những người làm rẫy, mà nhất là rẫy dưa hấu. Dưa hấu vào mùa Tết mà bón phân dơi, ruột dưa chín đỏ au, ngọt ơi là ngọt! Những buồng thốt nốt trái tròn tròn, nhỏ hơn trái dừa, để lộ lớp vỏ ửng màu huyết dụ ngà ngà đen bóng lưỡng mà tôi nhớ một lần tôi bị té sông chết chìm được vớt lên và cứu sống, chị tôi cho tôi ăn lần đầu tiên loại trái thốt nốt này. Cơm thốt nốt màu trắng không mấy ngon nhưng có hương thơm vô cùng hấp dẫn như loại trái thị lạt nhễu mà để gần mũi có mùi thơm đáo để, phát ghiền. Nhớ lần ấy, tôi bị chết chìm vào năm tôi chưa đi học. Cũng tháng Năm nước sông đục ngầu là mùa cá chốt đặc sông. Tôi thích cầm cần câu đi gần mé sông móc mồi dế câu cá suốt ngày. Lưỡi câu vướng một nhánh chà và tôi vói tay gỡ lưỡi câu, rồi trượt chân lăn tuốt xuống sông. Và cứ thế mà uống đầy một bụng nước, chết lúc nào không biết. Đến khi được cứu sống, tỉnh lại tôi còn sợ mất hồn, mất vía nhiều ngày sau. Tôi nhớ mẹ tôi thương con, ôm tôi vào lòng vừa mừng, vừa chảy nước mắt mà không trách mắng con một lời nào vì nhiều lần mẹ đã căn dặn mà tôi lại ham câu, nên mới ra nông nỗi. Từ lần đó tôi sợ xuống gần bờ sông, bờ rạch một mình cho tới lúc tôi đi học. Người cứu sống tôi, về sau khi lớn tôi biết được là một cô gái có cái tên giống con trai, cô Phán. Cô là con của một ông xã trưởng cùng làng. Về sau này, cô được cha mẹ gả chồng về xã Mỹ Hội Đông quận Chợ Mới, An Giang. Nhưng hồng nhan bạc mệnh, cô bị cảm gió nặng và mất vào năm tôi còn cải tạo trong rừng tràm. Mấy dòng này như một lời cảm ơn cô Phán dù muộn màng của một người chết hụt hồi còn bé nhỏ năm xưa.