Home Văn Học Tùy Bút Mẹ và con

Mẹ và con PDF Print E-mail
Tác Giả: Nguyễn Mộng Giác   
Thứ Bảy, 01 Tháng 11 Năm 2008 09:33

1.11.2008


Từ văn phòng xuống lớp, tôi phải qua một khoảng sân nắng còn bốc bụi mù mịt. Học sinh đã vào lớp, nhưng những bước chân chim nhảy nhót đùa giỡn mấy phút trước đó, vẫn còn lưu dấu trong không khí. Tôi ngửi thấy mùi hăng hăng của cát nóng, mùi ngai ngái của lá me khô, và thoang thoảng đây đó mùi khét nắng của những mái đầu tóc hoe. Tôi cười một mình. Cát nhỏ rào rạt dưới chân. Gót guốc cắm sâu vào lòng đất, cắm thật sâu, nhưng ăn thua gì, khẽ nhấc một chút, chiếc guốc đã nhẹ hẩng. Giơ lên cao hơn lệ thường, tôi ấn mạnh guốc xuống cát lún chút nữa. Nhưng tôi vẫn bước. Đôi gót lãng du. Vì, đúng là đôi gót lãng du, thích chạy nhảy quanh co, đùa cợt, quên hết cả giờ giấc như lũ học trò của tôi. Nắng thêu hoa lên mặt sân. Cát ươm nồng không khí. Bụi bay lãng đãng nhẹ nhàng... Tôi chợt vui vô cớ. Tôi hát, tôi hát nho nhỏ, một bài gì đó đầu Ngô mình Sở nhưng chắc là một khúc vui vì nhịp nhanh và ríu rít như tiếng chim sẻ trên cành bàng phía trước văn phòng. Lũ học trò đang lao xao trong kia. Cái lũ quỉ. Đã dặn không biết bao nhiêu lần là khi cô chưa kịp tới, phải ngồi vòng tay lại, không ai được nói chuyện, không ai được đập bàn xô ghế. Liên toán trưởng phải có phận sự lên đứng trên bục cao nhìn xuống phía dưới lớp ghi hết tên đứa nào không cho đôi môi kịp làm da non. Cứ biên hết tên lũ quỉ đó cho cô. Nhiều lần thằng liên toán trưởng phân vân. Nhưng thưa cô tụi nó không sợ em. Em mới mở miệng, tụi nó đã ê xuống đi. Tôi đã mách nước cho thằng liên toán trưởng: "Thế này nhé, em được cả lớp bầu lên chứ phải chuyện chơi đâu. Em được cô tin cậy, như vậy em phải cho tụi nó thấy cái oai của em chứ. Em đứng thế này này. Đứng thật thẳng. Hay tay chắp sau lưng. Ngực hơi trỡn tới một chút. Em nhìn đăm đăm không chớp mắt xuống phía dưới, ráng đừng có nhảy. Em nhìn quét một lượt từ phía phải qua phía trái, rồi lại nhìn từ trái qua phải..."

Lúc tôi đến cửa lớp, bọn quỉ đang chọc ghẹo nhau, la hét chí chóe trong khi liên toán trưởng hí hoáy ghi gì đó lên bảng. Thằng bé chắc nó áp dụng bài học của mình, sau khi nghiêm nghị ra uy đã cương quyết ghi tên bọn mất trật tự lên bảng cho cô phạt. Tôi bước vào, cả lớp đứng dậy đồng loại, im phăng phắc, không nhúc nhích, y như những pho tượng trong cái nhà mồ xi măng vuông vức sáu thước bề ngang, sáu thước bề dọc. Liên toán trưởng ngượng nghịu bối rối, nửa muốn đưa tay xoá hàng chữ trên bảng nửa muốn trở về chỗ mình. Tôi đọc thấy hàng chữ nguệch ngoạc "yêu cầu các trò..." Chết rồi! Yêu cầu! Yêu cầu! Làm lớn mà không dám ra uy, còn xuống giọng năn nỉ, yêu cầu các trò im lặng không thì cô la. Tôi bắt đầu ra dấu cho Tuấn về chỗ, chậm rãi bước lên ngồi trên bàn thầy. Đứa nào đó trong đội trực đã cắm vào bình hoa hai cái bông trang và mấy nhánh lá xanh. Chiếc khăn phủ bàn bằng ni lông trắng thật ngay ngắn, phẳng phiu. Đám học trò của tôi đáng yêu biết bao nhiêu. Tại sao tôi có thể gắt gỏng với những tâm hồn thơ ngây, những nét mặt non nớt nầy cho được. Tại sao có lần tôi đã ôm đầu mà thét lên trước mặt hiệu trưởng: "Anh cho tôi đi. Làm ơn cho tôi thoát khỏi cái địa ngục nầy. Toàn là lũ quỉ sứ, ồn như cái chợ và khét nắng không chịu nổi". Tôi ngắm hai cái bông trang trong bình, nói với học trò:

"Các em lấy vở viết chính tả".

Như một phép lạ, tiếng ồn ào vỡ như thác nước. Cả tụi nhao nhao:

"Cô chưa cho ngồi xuống mà cô!"

Tôi cười giả lả, phác tay bảo:

"Ờ, cô quên, thôi các em ngồi xuống đi. Môn đầu tiên là viết chính tả phải không?"

"Dạ, chính tả cô".

Tôi quay xuống hỏi:

"Em nào xung phong lên viết bảng".

Dường như không có đứa nào không đưa tay xung phong. Lần nào cũng vậy! Không hiểu được lên bảng, ngọ ngoạy phía sau cái màn che vải xanh phai màu để nắn nót viết những hàng chữ xiên xẹo lên dốc xuống ghềnh có cái gì hấp dẫn, đến giờ chính tả, đứa nào cũng tranh nhau giơ cao tay cho cô chọn. Một ý nghĩ ranh mãnh chợt đến, tôi nói:

"Cô biết chọn ai bây giờ! Thôi, cô chỉ chọn những em đẹp trai thôi!"

Quá nửa lớp rụt rè rút tay lại, không nhí nhỏm như trước nữa. Mấy đứa biết rõ mình đẹp trai, hết sức tự tin, đứng thẳng người lên, đưa tay cao lên hơn. Thấy vẻ tiu nghỉu của mấy đứa xấu, tôi hối hận. Sao lại tạo cho mấy đứa bé ngây thơ nầy sự thắc mắc vô lối về chuyện đẹp xấu, gieo cho chúng niềm oán trách hờn tủi đối với số phận, đối với Thượng đế? Mình có điên không đây? Trời đâu đã nắng bao nhiêu, và gió nam chưa thổi mà Nhàn! Mày có điên không Nhàn! Tôi bối rối, bảo học trò bỏ tay xuống, giải thích cho chúng hiểu:

"Cô nói đùa đó. Cô thương các em đồng đều, không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo, xấu đẹp gì hết. Các em đừng có mặc cảm".

Lũ trẻ ngơ ngác không hiểu. Thằng Tuấn giơ tay hỏi:

"Thưa cô, mặc cảm là sao hở cô?"

Mày lại lầm lẫn nữa rồi Nhàn! Lũ trẻ lớp bốn có hiểu gì đâu mà nói chuyện mặc cảm không mặc cảm! Tôi không biết phải giải nghĩa thế nào, vừa nói bâng quơ, vừa tìm ý.

"Mặc cảm hả! Mặc cảm là... là mặc cảm. Chờ các em lớn hơn cô mới giải thích được. Cô cho ví dụ như thế nầy nhé. Như em Trần Xuân Đức ngồi chỗ cửa sổ kìa".

Thằng Đức giật mình không hiểu cô muốn gọi mình làm gì, sợ sệt đứng dậy. Cả lớp reo lên thúc dục:

"Đức vồ! Đức vồ! Cô gọi kìa!"

Tôi cười bảo Đức ngồi xuống, rồi chờ cho cả lớp yên lặng mới nói:

"Các em đặt cho Đức cái biệt hiệu Đức vồ, vì Đức có cái trán lồi hơn thiên hạ một chút. Đầu tiên Đức đâu có để ý, phải không. Nhưng về sau nghe các bạn chế nhạo, em chột dạ, cứ vuốt vuốt cho mái tóc trước trán che lấp phía trước, che lấp cả mắt luôn".

Cả lớp lại cười ồn ào. Tôi hỏi tiếp:

"Như vậy là Đức có mặc cảm".

Thằng Minh giơ tay hỏi:

"Thưa cô, như vậy mặc cảm là cái gì xấu trên thân thể mình phải không cô?"

Những đứa khác cũng còn thắc mắc nhưng sợ không dám hỏi, nên chú ý nghe lời tôi giải đáp. Tôi nói:

"Không phải thế. Minh hiểu lầm rồi. Thôi cô lấy một ví dụ nữa nhé. Tại sao em cứ đội mũ hoài vậy Minh? Vào lớp mát em đội mũ, ra sân có bóng mát, em cũng đội mũ.. Cô vào lớp, em mới chịu bỏ mũ ra".

Minh bẽn lẽn, trả lời ngập ngừng:

"Mấy bữa nay trời nắng quá cô".

Cả lớp cười ồn lên. Đứa nào đó nói lớn:

"Không phải, Minh gáo nói xạo!"

Tôi làm mặt nghiêm để tái lập trật tự. Tôi nói:

"Nhiều hôm trời không nắng em vẫn đội mũ. Cô biết hết. Chỉ vì em sợ tụi bạn quỉ sứ len lén đến phía sau lưng đưa tay xoa cái đầu trọc của em rồi la lên: Minh Gáo ! Minh Gáo!"

Minh thẹn, ngồi im một chỗ không nói gì được. Tôi hơi hối hận, nhưng muốn nhân cơ hội tìm hiểu vì sao Minh thường cúp một cách tàn sát, trọc lóc như các nhà sư, tôi nói:

"Em sợ tụi nó chòng ghẹo nên đội mũ. Đó là mặc cảm.. Nhưng cô hỏi thật nhé, tại sao em không cúp cao hơn một chút?"

Minh đứng dậy, giọng lí nhí:

"Thưa cô, cha me bảo cúp như vậy cho được lâu, đỡ tốn tiền".

Không khí trong phòng có vẻ ngột ngạt, vì sự nghiêm nghị, thẹn thùng của tôi. Mải vui tôi đã vô tình gợi cho Minh một điều em cố quên: Cái nghèo. Lũ học trò thấy vẻ mặt tôi, không dám vui đùa tự nhiên la hét nữa. Để xoá tan nỗi khổ tâm của Minh, tôi gắng cười nói, san sẻ bớt mặc cảm của em cho mấy đứa khác:

"Mà thôi, chuyện đó có gì đáng buồn đâu. Em nào lại không có cái hơi lạ, hơi khác thường cần phải che giấu bạn bè. Này nhé, trong lớp nầy, cô thấy thiếu gì! Có em cả tháng trời không chịu tắm, cổ có ba vòng kiềng đất đen. Mỗi lần cô gọi lên đọc bài cứ co ro thụt cổ thun vai cho cô khỏi trông thấy. Ai đó?"

Cả lớp lấy lại niềm vui ban đầu, trả lời lớn:

"Đồng đất".

"Có em không hiểu vì sao cứ áy náy mãi về cái quần, cái nịt của mình. Mỗi lần cô kêu lên bảng, trước khi gân cổ lấy giọng đọc bài em đó luôn luôn đưa tay lên nịt rán kéo lên".

"Bình Xách Quần".

"Có em vì không nghe lời cha mẹ, cả ngày chạy rong ngoài đường, nắng đốt đen thui cả mặt mũi, chân tay".

"Tương Ông Táo".

"Thôi, mắt thì giờ nhiều rồi. Cô chọn một em lên viết chính tả nhé. Cô chọn một em không mặc cảm".

Tôi giơ tay chỉ lên trần, xoay người đảo một vòng như cái quay bán kẹo kéo trước cổng trường. Cả lớp yên lặng chờ đón. Tôi xoay qua xoay lại hai ba vòng, cuối cùng chỉ vào Tùng.

Cả lớp cười rồ, reo lớn:

"Tùng Bi Li! Tùng Bi Li!"

Tùng hãnh diện ra mặt, chạy nhanh lên bục, kéo mạnh cái màn che hết tấm bảng gỗ sơn màu lá cây. Che kín xong, Tùng ngồi xuống chui ra ngoài, đến bàn tôi lấy viên phấn. Tôi bảo cùng cả lớp:

"Các em viết cẩn thận nhé. Nhất là dấu hỏi, dấu ngã. Lần nầy em nào còn viết lầm hỏi ngã cô sẽ trừ một điểm chứ không phải trừ nửa điểm như kỳ trước. Nhớ chưa?"

"Thưa cô, nhớ".

Chờ cho Tùng chui trở vào màn, tôi đọc:

"Chính vì con
Chính vì con mà người thợ xay bột...."

Tương Ông Táo láu táu hỏi:

"Bột viết C hay T cô?"

Tôi mắng át:

"Viết chính tả mà còn hỏi cô. Với lại hỏi gì mà đần vậy. Bột viết C thành ra chữ gì?"

Bấy giờ cả lớp mới thấy cái ngớ ngẩn của Tương, ồ lên cười. Chờ cho chúng im lặng trở lại tôi đọc tiếp:

"... mà người xay bột phải mặc quần áo đầy bột trắng xoá. Chính vì con mà áo người hàng thịt nhuộm đỏ đầy những máu. Chính vì con mà nhà nông bị cháy nắng, dày dạn gió mưa. Chính vì con mà người thợ máy phải đứng trên đầu xe lửa, mà người lính phải chiến đấu ngoài biên thùy. Mỗi người trong khi làm việc riêng của mình phải phục vụ được toàn thể đồng bào. Ngày nào mà con đã hiểu mọi điều đó..."

Chờ cho học sinh viết tiếp, tôi đưa mắt nhìn quanh lớp. Dước góc trái, thằng Viên ngồi cắn quản bút không viết, nhìn lơ đãng ra phía hàng rào dây thép gai đan theo hình ô vuông. Tôi hỏi:

"Viên, sao không lo viết mà ngồi thừ ra đó thế?"

Viên giật mình cúi xuống vở, nhưng vì không nghe câu trước nên phải quay sang hỏi đứa bên cạnh. Thằng Đồng lắc đầu quầy quậy, lấy tay che kín trang vở. Thấy dáng Viên tội nghiệp quá, tôi nhắc lại:

"... Ngày nào mà con đã hiểu mọi điều đó, không những con sẽ kính trọng những người lao động ấy, mà lại còn cố gắng để thành người có ích cho xã hội. Chấm hết. Cô đọc lại dò nhé!"

Lúc chấm điểm cả lớp đều khá cả, chỉ trừ có Viên. Xoá viết thành xoá; nhuộm thành nhượng; những thành nhửng. Không thể chịu đựng được nữa. Tôi quát lớn:

"Học hành như vậy hả? Đi học một hôm nghỉ hai ba hôm. Ngồi trong lớp chỉ lo ngóng chuyện ngoài đường. Không muốn học nữa, thì nghỉ học đi, đừng vác mặt đến đây nữa".

Viên cúi gằm mặt xuống bàn, vai so lại như run sợ vì không chịu đựng nổi những ánh nhìn thương hại, khinh bỉ của bạn bè đổ dồn về phía mình. Hình như Viên có khóc, vì Viên đưa cổ tay lên quệt nhiều lần ở mũi. Tôi vẫn giữ im lặng, để dằn mặt một học sinh lười biếng và cảnh cáo những đứa khác. Không khí trong phòng lắng đọng, tù túng, căng thẳng. May mắn, lúc bấy giờ, chuông báo hiệu giờ ra chơi giục giã, nô nức.

*


Chưa kịp cho học trò ra sân, con Phương dạy bên lớp năm đã chạy đến trước cửa léo nhéo:

"Nhàn, ra tao nói cái nầy!"

Tôi vờ không nghe thấy, gắng làm mặt nghiêm bảo học trò:

"Các em khá lắm. Thôi ra chơi đi. Không được chạy nhảy nhiều rách quần áo mẹ. Không được chọc ghẹo đập lộn nhau nghe chưa!"

Lũ trẻ đồng thanh trả lời:

"Nghe".

Tôi vừa phát tay, cả lớp đã ùa ra khỏi phòng nực nội như đàn ong vỡ tổ. Phương vẫn kiên nhẫn đứng chờ ngoài hiên. Tôi hỏi:

"Chuyện gì đó bà?"

"Ra đây. Vui lắm. Mày có biết chàng Tiêu hôm nay ăn mặc thế nào không?" Tôi miễn cưỡng đi theo Phương. Tôi muốn nói với cô bạn đồng nghiệp: "Biết rồi. Khổ lắm! Nói mãi!" Tiêu vừa đổi tới trường này sau khi được giải ngũ. Dáng người cao lớn, vạm vỡ. Vai rộng. Mái tóc cắt ngắn và mầu da nâu, dấu tích của bao năm binh nghiệp, khiến ở Tiêu toả ra một vẻ cường tráng, cương nghị của những chàng giác đấu La Mã. Phương tíu tít hỏi thăm người nầy một ít, người kia một chút, và chỉ trong vòng vài ngày sau đã biết rõ cuộc đời ái tình cự nghiệp của ông thầy mới. Phương chê Tiêu kênh kiệu, chê Tiêu thô. Bộ đi đứng cứng nhắc, thiếu vẻ nho nhã cần thiết. Chê Tiêu có đôi mắt lờ đờ, khác hẳn vẻ mơ màng của các nam nhân vật tiểu thuyết tình cảm của Phương đọc suốt sáng, suốt chiều. Chê Tiêu thiếu mái tóc óng ả nghệ sĩ của chàng tài tử Pháp mà Phương cắt báo xi nê lồng vào bìa vở soạn bài. Nhưng tôi biết Phương quá rồi! Gương mặt xương xương như bất cần của Phương như thêm một chút sinh khí xa lạ nào đó. Sáng nay Phương có thoa chút son hồng trên đôi má, đôi môi ướt vaseline. Phương nói liên miên, tôi chỉ nghe thấp thoáng, vì biết câu chuyện quanh quẩn bấy nhiêu. Nhưng Phương không chịu buông. Thuý ở lớp ba lên chú ý ngay chiếc áo hoa của Phương, nhận xét thật thà:

"Mày may áo mới hồi nào đó? Khổ người mày, nét mặt mày mặc áo hoa lớn đâu có hợp".

Phương giận đến đỏ mặt. Nhân cơ hội hai cô bạn cãi vã nhau về thời trang ăn mặc, tôi tìm lối thoát:

"Thôi, cho tao về lớp một chút. Bỏ quên cái thẻ kiểm tra trong cái mu soa, sợ tụi học trò lục lạo quăng mất".

Tôi bỏ đi. Cả Phương và Thuý vẫn còn cãi một cách hăng hái. Bước vào cửa, tôi hết sức ngạc nhiên. Viên vẫn ngồi ở chỗ cũ, hí hoáy vẽ gì đó lên bàn học. Tôi hỏi:

"Sao không ra chơi hở Viên?"

Viên ngước lên, đôi mắt còn thật buồn:

"Thưa cô, em không thích. Ra nắng sợ đau".

Lối thưa gửi lễ phép của Viên làm cho tôi cảm động. Tôi hỏi để giảng hoà:

"Khi nãy cô la, em có buồn cô không?"

"Dạ không, cô la đúng mà!"

Tôi đi xuống chỗ Viên, ghé ngồi lên bàn học sinh thấp lè tè và sơn màu nâu. Tôi hỏi Viên, có hạ giọng cho thật êm ái, hoà nhã:

"Cô hỏi thật. Tại sao Viên lười biếng vậy? Em học khá lắm, nhanh nhẹn và thông minh lắm. Nhưng mấy tháng nay, em đi học thất thường. Mà dù có đi, đến lớp ngồi thờ thẫn mất hồn như con cá ươn. Lúc nãy, tại sao đang viết chính tả, em ngồi thừ nhìn ra đường cái? Nhớ nhung gì ngoài đó?"

Tôi đưa tay vuốt tóc Viên. Nó cảm động đến rơm rớm nước mắt. Tôi quay đi cho Viên khỏi thẹn và lấy lại bình tĩnh, Viên trả lời:

"Em viết xong câu chính tả cô đọc, ngửng lên nhìn tụi nó trong lớp có đứa ngoẽo đầu, có đứa mím môi đến tức cười. Có đứa nằm soài trên mặt bàn. Bỗng nhiên em nghĩ: Đứa nào cũng có Ba hết, trừ mình. Em buồn muốn khóc, không nghe tiếng cô đọc bài nữa".

Tôi cảm thấy nghẹn ngào trong cổ họng, sống mũi nhột nhạt. Tôi đã la oan cậu bé học trò bất hạnh của tôi. Mùi khét nắng toả ra từ mái tóc rối của Viên, lối ăn mặc cẩu thả dơ dáy của Viên, bàn tay dính đầy mực và những trang vở nhập nhoè chữ nghĩa của Viên không còn làm tôi khó chịu nữa.

Tôi hỏi:

"Ba em mất lúc nào?"

"Lâu rồi cô, cách đây bốn năm năm. Lúc ấy bé Xíu mới được có tám tháng".

"Bé Xíu là em út của Viên hả?"

"Dạ. Tụi nó sợ em lắm. Thằng Trung học lớp hai dưới Mai Xuân Thưởng. Con Xíu phải ở nhà giữ em cho má đi làm".

"Má em làm gì?"

"Dạ làm thư ký trong toà hành chánh. Má đi làm cả ngày thưa cô".

Tôi tìm được một cớ chính đáng để khuyên răn Viên:

"Đấy em thấy không? Má em ở vậy. Suốt ngày đầu tắt mặt tối để ráng nuôi con, lo miếng cơm manh áo cho con đi học. Muốn mua cho em một quyển sách, muốn may cho em một cái áo, má phải vất vả biết bao ngày. Viên không biết nghĩ, bỏ lớp trốn học đi bụi đời ngoài đường là nghĩa lý gì! Má hi sinh cho Viên như vậy, nỡ nào Viên không thương má..."

Tôi còn định nói nhiều, thật nhiều. Tôi tưởng tượng Viên là Tường đứa con trai đầu của tôi. Sẽ có ngày bé Tường lớn lên, bằng tuổi Viên. Sẽ có ngày tôi khóc đến đỏ hoe cặp mắt khi hay tin bé Tường trốn học, la cà ngoài đầu đường góc chợ với lũ ma cô, ăn cắp. Tôi sẽ nói với bé: "Tường không thương mẹ sao Tường. Tường không nghĩ lúc mẹ dật dờ không ra người khi mang nặng thai con trên thân thể ốm yếu mảnh khảnh của mẹ. Tường không nghĩ nỗi lo âu của mẹ, bồn chồn khi con khẽ ho, khắc khoải khi con ấm mình đi tướt..." Tôi định nói, nói mãi nói hoài, nếu không nhìn trở lại dáng ngồi của Viên. Viên gục đầu lên bàn học, cố dằn lắm, nhưng không thể nào ngăn nổi những tiếng khóc ấm ức. Cuối cùng như một cơn nước lụt phá vỡ bờ đê, Viên khóc oà. Tôi luống cuống hỏi:

"Sao thế Viên? Cô có nói điều gì làm tủi thân em đâu. Sao thế Viên?"

*
Suốt ba hôm nay, Viên không đi học. Hôm đầu tôi nhìn về chỗ Viên ngồi, thấy trống, có cảm giác khó chịu của một kẻ thất bại. Tôi đã quá tin ở sức mạnh lời nói của mình. Viên đã khóc tức là đã ăn năn. Đứa con trai mười tuổi bất chấp mọi sự, ngồi khóc vùi trước mặt bạn bè, tất nhiên lòng nó phải xúc động cao độ, đến nỗi niềm kiêu hãnh chỉ là điều phù phiếm bá vơ. Trông cách Viên chăm chỉ viết tập, cẩn thận làm tính đố, ngoan ngoãn vâng lời, tôi đã tin rằng Viên hối hận. Viên đã hiểu, Viên biết Viên làm khổ mẹ. Viên ham chơi không nghĩ đến nỗi xót xa như muối đổ vào lòng của người mẹ goá chắt chiu từng chục từng đồng để gắng nuôi con nên người. Thấy Viên không đi học tôi bực mình. Hoá ra thằng bé vẫn chứng nào tật nấy: giả vờ khóc đấy rồi, buổi trưa về, nhìn cái bảng quảng cáo phim chưởng loè loẹt xanh đỏ trước rạp chiếu bóng, nghe tiếng nhạc dồn dập rộn rã từ loa phóng thanh, tiếng gọi quyến rũ của phố phường vẫn đủ sức lôi mạnh Viên về con đường cũ. Qua ngày sau, nhìn chỗ Viên ngồi tôi đâm ray rứt tự hỏi: Lỗi ở thằng bé hay lỗi ở mình.. Tuổi thơ hồn nhiên, sống bằng những sự việc trước mắt, lo ăn, lo ngủ, lo chạy nhảy nô đùa, có bao giờ thắc mắc đến những vấn đề trừu tượng, phiền nhiễu. Chính mình đã đưa Viên vào một thế giới khác, nhọc nhằn hơn, ảm đạm hơn. Thế giới có những cơn lốc xoáy bụi mịt mù có những thác lũ cuồn cuộn quấy đục dòng sông tuổi thơ. Mặc cảm. Phải rồi. Chính mình đã khiến Viên mang nặng thêm một mặc cảm phạm tội, một gánh nặng làm còng chiếc lưng mềm, làm oằn đôi vai nhỏ. Viên không chịu đựng được nữa. Viên thua cuộc. Trong nỗi thất vọng Viên đâm liều, Viên nhủ thầm: Mình hư đốn quá mức rồi! Không còn có cách nào cứu vãn được nữa. Mình đã xuống cùng tận của đáy sâu hôi thối và nhơ nhớp. Thôi! Thà liều thả mình rơi xuống, vì đã đến nước này, có làm gì cũng chỉ là vô ích, phí công.

Hết trách Viên, tôi lại trách tôi. Tôi bực bội, cáu kỉnh vô cớ. Cả lớp mường tượng cảm thấy một mối nguy hiểm thấp thoáng đâu đó, tự động giữ im lặng và nét mặt đứa nào cũng nơm nớp, lo lắng trong lặng lẽ. Mấy ngày đó, ở nhà, thằng Tường và con Tí lại đau. Tôi tưởng đang sống giữa địa ngục. Cho nên tôi vui mừng biết chừng nào, khi đến sáng hôm thứ ba, vừa vào lớp được bao mươi phút thì một người đàn bà dẫn Viên tới. Hôm ấy trời gió, hai cửa sổ và cửa lớn trông ra phía sân đều đóng im ỉm. Nghe tiếng gõ, Tuấn nhanh nhẹn chạy ra mở cửa. Người đàn bà ấy đã đứng chờ sẵn ngoài hiên, phía sau thằng Viên có thu mình cho nhỏ lại, ngượng ngập cúi đầu khi tôi bước ra. Không chờ tôi hỏi, người đàn bà tự giới thiệu trước:

"Xin lỗi cô, tôi là má của trò Viên".

Tôi không ngạc nhiên chút nào, vì đã đoán được dễ dàng từ đầu. Những lời xã giao ban đầu, ca tụng sự tận tuỵ của tôi và khung cảnh nhà trường, vừa vào tai này đã lọt qua tai kia, bay đi theo gió. Tôi không nghe được gì, tò mò nhìn người mẹ của Viên. Không hiểu sao tôi có ác cảm với bà ngay từ lúc mới gặp. Tôi chưa hề quen biết bà, lại không có một thành kiến nào với một phụ huynh học sinh xa lạ. Hơn thế nữa, chính tôi đã từng dùng hết sự dịu dàng khéo léo đề cao đức hy sinh của bà đối với Viên, để khuyên răn Viên chăm chỉ học hành. Tuy thế mới thoạt nhìn, tôi ngờ ngợ nhận thấy, mơ hồ thôi, có điều gì không hợp. Có thể tại vì mùi nước hoa hơi nồng, có lẽ cũng là loại champange đắt tiền nhưng bà đã lạm dụng, đi quá trớn. Ờ mà sao tôi lại khắt khe như thế được? Chính tôi, đôi lúc vào những ngày khó ở, vẫn dùng loại nước hoa này. Tại sao tôi đột nhiên khó tính với người mẹ của Viên. Có thể chuyện dùng nước hoa hay không, chưa thực sự đóng một tầm quan trọng nào nếu tôi không cố phác họa một hình ảnh khác, hoàn toàn khác về bà. Nghe Viên kể, tôi tưởng tượng ra một người đàn bà nhỏ thó, tóc rối, mắt buồn hiu, ăn mặc lôi thôi nhưng còn đủ đơn giản sạch sẽ để giữ tư cách con nhà. Tôi tưởng tượng một mẹ Việt Nam quên hết bản thân, quên hết cuộc đời mình để lo lắng cho con cái. Trong trí tưởng tượng đầy sương trinh và nắng hồng của tôi, người mẹ của Viên không bao giờ thèm dùng nước hoa. Nhưng nghĩ kỹ, có lẽ còn có nhiều chi tiết đáng ngờ khác: cái lối thường xuyên đưa lưỡi liếm đôi môi dầy cho luôn luôn ướt mọng, nũng nịu, nỗi lo lắng thái quá đến nỗi bàn tay cứ đưa lên vuốt nhẹ mái tóc chải kỹ sợ rối theo gió... Nói tóm lại, người đàn bà đang huyên thiên kể lể trước mặt tôi đây là một kẻ xa lạ, bị tôi từ khước, vì dám ra ngoài những mẫu mực tự ý tôi qui định. Tiếng nói của bà hơi khao khao, đầm ấm, như pha lẫn một khát vọng huyền bí và một mệt mỏii quyến rũ. Bà nói, bà nói mãi. Tôi bất chợt chụp được một vài âm thanh, hơi lạnh mình vì giọng rã rời mà thúc giục vời gọi:

"... Cô nghĩ mà xem. Tôi goá bụa đơn chiếc. Anh ấy mất là khỏe thân cho riêng anh ấy, còn tôi phải lo nuôi đám con dại. Ban đầu tôi cứ tưởng rồi ra trời đất sụp đổ hết. Tôi biết lấy gì nuôi lũ trẻ đây? Tôi đập đầu vào quan tài anh ấy, tôi đòi nhảy xuống cho người ta chôn chung một huyệt với anh ấy. Nhưng bà con hàng xóm cứ khuyên răn mãi, bảo gắng sống mà nuôi con. Tôi sống được đến ngày nay, chịu cực, chịu khổ, chỉ vì không nỡ bỏ chúng bơ vơ trên đời. Thế mà thằng quỉ sứ này có thương tôi đâu. Tôi đi làm cả hai buổi, nhiều bữa giấy tờ ở sở làm không xong, phải ở lại làm đến tám chín giờ tối. Tôi cứ nghĩ mình cực khổ thế, con cái nó tự biết thương mẹ, chăm lo học hành. Không ngờ cả bọn a tòng với nhau. Thằng anh đầu đàn bỏ học đi chơi, hai đứa em lại nói dối mẹ để che chở cho anh. Nếu cảnh sát không bắt đám trẻ con cờ bạc du đãng đem về ty, nếu anh ty trưởng không điện thoại cho hay, thì tôi cứ tin rằng con mình ngoan ngoãn. Trời ơi! Tôi nghe điện thoại mà không tin tai mình. Trời đất đảo điên! Sụp hết, đổ hết!..."

Tôi không thể tiếp tục nghe cái máy phát thanh liên hồi tả oán nữa. Tôi tìm cách nói sang chuyện khác. Viên vẫn nép sau mẹ, hai tay vo vạt áo và bàn chân di di lên khóm cát vươn vãi trên nền xi măng. Tôi cắt ngang lời thiếu phụ nói với Viên:

"Đó, Viên thấy không? Em không chăm học, làm khổ sở cho má. Hôm trước cô đã khuyên răn em nhiều. Em chịu ngồi nghe. Cô nhớ em có khóc nữa. Thế mà tại sao bây giờ vẫn quen đường cũ hở Viên? Em có thương má không?"

Người mẹ quay lại nhìn con. Viên đứng yên, không trả lời, cũng không gật đầu. Thiếu phụ lắc đầu chán nản phân trần:

"Đấy, cô thấy không? Nó cứng đầu, cứng cổ! Tôi đang làm ở sở mà phải xin phép ông chủ sự về nhà, hỏi thằng Trung em nó, chỗ nó thường lui tới, bắt nó dẫn đến đây cho cô dạy dỗ giùm..."

Chụp được cơ hội may mắn, tôi mời khéo:

"Thôi, bà yên tâm về sở làm việc đi. Tôi sẽ ráng tìm hiểu, khuyên lơn nó. Tuy ham chơi, nhưng Viên nó thông minh và biết điều".

Thiếu phụ mừng rỡ, giọng vồn vã:

"Tôi chỉ mong có thế thôi! Trăm sự nhờ cô".

Bà quay lại đe dọa con vài câu rồi ra về.

Viên không nói gì, cũng không chào mẹ, theo tôi vào lớp. Lòng tôi hoang mang. Dáng điệu, cử chỉ, lời lẽ của mẹ Viên cùng thái độ bất kính của đứa con phải có liên hệ xa gần nào đó. Có cái gì không ổn giữa tình mẫu tử. Như tiếng máy xe lọc cọc, lọc cạch do một bộ phận mòn cũ, hư nát. Thế thì thứ gì đã mòn cũ, hư nát trong gia đình goá bụa này? Tôi dạy qua quít cho xong chuyện thấp thỏm chờ giờ ra chơi. Tôi giữ Viên ở lại. Viên run sợ thật sự, mắt rươm rướm khi ngước lên cầu khẩn tha thứ. Tôi không nói gì. Lấy kinh nghiệm mấy năm dạy học, tôi ngồi xuống bên Viên, sửa lại cái cổ áo cáu bẩn, phủi bụi trên quần đùi xanh, vuốt ve cho mái tóc bù rối của Viên thẳng lại. Kết quả như mọi lúc, Viên gục xuống khóc. Tôi tiếp tục vuốt tóc cậu bé, nói thật nhẹ:

"Em cứ khóc đi! Khóc cho thoả thuê đi! Cô không giận em đâu! Cô hiểu em, Viên có điều gì u uất không thể nói được với ai, canh cánh bên lòng, giữ lại không nổi mà nói ra thì không đành. Cô biết em sắp nói hết cho cô biết, phải thế không? Phải thế không Viên?"

Viên khóc to hơn. Mấy đứa học trò lấp ló nơi cửa sổ, gặp đôi mắt tôi lườm quở trách, vội vã lảng xa. Rồi nước mắt cũng vơi, Viên thút thít, trong khi tôi vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Chờ một lúc không được, tôi nói:

"Em đừng oán hận má. Má la rầy em, bắt em đi học, chỉ vì mong sao cho em nên người. Một người mẹ gương mẫu luôn luôn..."

Sự phẫn nộ oà vỡ. Viên nói lớn, vẻ nóng nảy, thảng thốt khác thường:

"Cô đừng nói vậy. Má em không xứng đáng. Bữa nào má cũng về lúc tối mịt và lúc nào cũng về có đàn ông đi kèm. Má cười với họ, má đùa giỡn với họ, chính tai em nghe má gọi cái ông lái xe Jeep xanh thường đưa má về là "cưng". Đưa cái xách cho em "cưng"! Thằng Trung chưa biết gì cứ gọi là chú Thảo. Con bé Xíu nhờ công giữ em được má cho tiền, ham tiền quên hết. Còn em, em lớn rồi, em..."

Tôi kinh nhạc hỏi vội:

"Giữ em? Bé Xíu là con út mà? Hôm trước Viên bảo thế. Viên ngước lên mắt còn đỏ và đôi má nhớp nhúa còn rõ ngần nước mắt:

"Má đẻ thêm bé Chút năm ngoái, thưa cô".

*
Sáng nay Viên lại không đến lớp. Tôi đành chịu thua vậy chứ biết làm thế nào. Tôi bất lực, không thể làm gì được. Mỗi người có một cuộc đời. Tôi có nỗi lo riêng của tôi. Cu Tường lại nóng mình. Bé Tí chụp vào cái tẹt mốt pha sữa, nước sôi làm phồng cả cánh tay non. Tôi đã xót xa nhìn hai đứa con khóc lóc cả đêm qua. Nhà tôi làm việc cực nhọc, tôi không dám đánh thức anh ấy dậy, đành phải lo âu một mình. Cho nên dầu hơi thất vọng khi không thấy bóng Viên xếp hàng, tôi vẫn giữ được thản nhiên.

Bà mẹ Viên lại tới. Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! Ai không biết bà tảo tần nuôi con. Bà sinh con ra, có gan sinh con ra, thì phải ráng mà nuôi chúng chứ! Nói với tôi làm gì! Tôi lạnh nhạt hoàn toàn, và ngạc nhiên không hiểu tại sao người đàn bà đó có thể con cà con kê một cách chân tình với một pho tượng.

"Có trời đất chứng giám, tôi thương nó còn hơn cả tôi. Nó giống anh ấy như đúc. Nhiều lúc nhìn nó nháy mắt, nhìn nó hờn dỗi, tôi cứ tưởng anh ấy sống lại, anh ấy chòng ghẹo tôi, anh ấy giả vờ hờn dỗi tôi vào những ngày đầu yêu nhau. Tôi lo lắng cho nó, vậy mà nó không biết nghĩ. Có trời mới hiểu tại sao nó lêu lổng chơi bời không thương mẹ, thương em..."

Bực dọc quá, tôi nói:

"Thưa bà, có lẽ Viên nó sợ hãi quá mức. Trẻ con hay có nhiều trái chứng. Tâm hồn nó mỏng manh như sợi tơ sợi tóc, nhiều lúc xúc động quá nó có thể liều lĩnh. Tôi ngại hôm qua bị bắt vào ty, ông ty trưởng có nặng lời quát tháo với nó chăng. Nó sợ quá đâm liều".

Thiếu phụ vội cải chính:

"Không! Không bao giờ. Tôi biết tính anh Thảo, xin lỗi ông trưởng ty, ông ấy luôn luôn hoà nhã khả ái với tất cả mọi người. Không bao giờ ông ta dọa nạt nó. Mà thực ra, không bao giờ Viên nó sợ ông ty".

Một ý định đanh ác thoạt hiện, tôi mím môi trước khi dằn giọng:

"Bà nhớ lại xem, có vô ý nặng lời với em Viên không? Trẻ mồ côi thường có một tâm tính nhạy cảm hơn trẻ thường. Hoặc bà gay gắt với nó khi Viên xin tiền mua sách vở. Hoặc Viên vô ý làm té bé Chút bà trừng phạt quá đáng?"

Thiếu phụ giật mình, vội ngửng đầu lên nhìn tôi đăm đăm. Chưa bao giờ tôi thấy một đôi mắt bi phẫn như vậy. Ở đó toát ra sự đau đớn cùng cực và sự giận dữ cùng cực. Như đôi mắt con bò đã bị căng nọc xuống đất và bị cắt lìa khí quản. Tôi hơi lùi lại, hai bàn tay nắm chặt vào vạt áo dài. Nhìn tôi một lúc thiếu phụ mới lắp bắp nói được:

"Anh ấy chết đi. Tôi đã gắng nuôi con để quên. Để quên cô độc. Nhưng tôi mới có hai mươi tám tuổi đầu... Tôi còn trẻ quá..."

Tôi cảm thấy ngộp thở, như bước lùi vào một khoảng không. Tôi sợ. Tôi lùi lại phía cửa, lùi lại nữa. Tôi không nghe thiếu phụ nói gì, nhưng đôi tay bà ta giơ tới trước, mắt đổ lửa như muốn bóp chết hiện hình của nỗi cô độc là chính tôi. Khi lưng tôi chạm cánh cửa đánh một tiếng rầm, thiếu phụ giật mình khựng lại khóc oà lên, rồi bỏ chạy ra cổng.


Nước cạn, hoa lau

Một đêm gió thổi chờ trôi mất
Nước cạn hoa lau chỉ một niềm.
Tản Đà


Xếp dọn mọi thứ đâu vào đó, thì đã chín giờ tối. Chỉ còn hai giờ nữa là đến giờ giới nghiêm, mà mai Tịnh lại phải đi sớm. Có cái gì canh cánh bên lòng Tịnh. Chàng nhớ hình như mình còn quên một cái gì, cái gì quan trọng lắm. Tịnh bần thần đi ra đi vào một lúc, mới nhớ đến chị Trầm. Tịnh chưa đến chào chị, chưa báo cho chị biết từ mai chàng không còn ăn cơm tháng ở đó nữa. Và nhất là... chưa đến thực hiện thử cái ý định Tịnh nghĩ từ lâu mà cố quên đi, ý định đã bừng bừng trỗi dậy mãnh liệt từ lúc chàng nhận được giấy gọi.

Khi Tịnh đến hiệu, thì khách còn đông lắm. Vài bác công chức già, năm ba người lính vừa nhai cơm vừa nói chuyện ồn ào. Chị Trầm bận túi bụi phía sau cái tủ kính đựng các thức ăn. Thấy Tịnh đến, chị vui mừng hỏi:

"Sao em đến chậm vậy? Chị tưởng em lại ham chơi, quên về".

Tịnh cố bình tĩnh nói:

"Em phải đi chào hết bạn bè, bà con. Mai Tịnh đi".

Chị Trầm ngước vội lên:

"Đi đâu?"

"Em phải trình diện. Không học được nữa".

Chị Trầm không tin ở tai mình, cái tay cầm muỗng nước mắm để lơ lửng ở thế lưng chừng, mắt nhìn Tịnh vừa tra hỏi vừa xót xa. Tịnh nói tiếp, cho nó xong đi:

"Em lại chào chị, và sẵn dịp báo cho chị biết mai em không ăn cơm nữa".

Lúc ấy, người lính ngồi ở bàn ngoài gõ thìa vào chén gọi tính tiền. Chị Trầm định giả lơ để nói chuyện với Tịnh, nhưng tiếng gõ mỗi lúc mỗi hối thúc cấp bách hơn. Chị Trầm đành bảo:

"Em lại ngồi chỗ bàn cơm ăn đi. Chờ chị một chút. Chị trở vào liền".

Tịnh đã ăn cơm ở nhà thím Bảo, nên chỉ ngồi ở cái bàn con sát quày hàng lơ đãng nhìn chung quanh. Chị Trầm từ ngoài vào, đi thẳng đến phía Tịnh, tay dúi sâu mấy tờ giấy bạc bèo nhèo vào túi áo. Chị nói:

"Sao Tịnh không cho chị biết sớm. Các em lần lượt đi hết, quán này chỉ còn mấy ông công chức già trong toà hành chánh và mấy anh quân cảnh bên đồn. Tháng trước có Viễn, có Lý. Bây giờ đến em. Nhưng Tịnh có vào cùng một chỗ với Hà không?"

Tịnh bảo:

"Chắc cũng vào đó chứ đi đâu. Hà nó đi trước, mà lại oai. Bây giờ vào đó, nó thành đàn anh của Tịnh rồi. Mặc sức mà bắt nạt".

Chị Trầm xuýt xoa:

"Em để tới phút chót mới báo, làm sao chị kịp viết thư và gửi quà cho nó. Nhà chỉ còn có hai chị em côi cút, từ ngày nó đi, chị không thiết làm ăn gì nữa. Chị còn tiếp tục mở quán, là vì sợ nó xin tiền không có mà gửi. Em vào trong đó có gặp Hà..."

Một đám đông quân nhân kéo vào quán, nhiều người trong bọn đã say, bước chân nam chân xiêu. Tịnh đọc thấy sự bực bội trong ánh nhìn của chị Trầm, nói trước:

"Thôi để em ra phía trước coi cọp tivi một chốc, chờ khách đi hết em trở lại. Chị bận quá em sợ phiền".

Chị Trầm bối rối không biết phải nói gì để xin lỗi. Thấy Tịnh đứng dậy thật, chị cuống quít:

"Nhưng em phải trở lại nghe không. Chị muốn nhắn vài chuyện cho Hà"..

Tịnh ra phía trước đường đứng nhìn vơ vẩn lên trời.. Chờ cho khách về hết, chàng mới trở vào quán. Chị Trầm hỏi:

"Tin tức có gì lạ không Tịnh?"

"Tin tức gì?"

"Tin đọc trên truyền hình ấy".

"Tịnh cũng không nghe nữa. Lúc trở ra, thấy họ đã tắt rồi. Khán giả chì thích cải lương. Mỗi lần thấy cái ông ăn mặc chững chạc đọc tin chiến sự hiện lớn trên tivi, trẻ con nhao nhao phản đối. Lũ trẻ không khoái tin chiến sự. Tịnh cũng vậy".

Tịnh nghĩ đến hình ảnh một cái máy truyền hình có dáng người thật. Nhưng cái khung tivi sẽ nằm ở đâu. Chị Trầm nói:

"Mai em vào đó, nếu gặp..."

Tịnh không nghe thấy chị nói gì, mãi chú ý đến tưởng tượng riêng. Chị Trầm nói chưa hết, Tịnh đã cắt lời:

"Chị nghĩ hay thật. Nếu có cái tivi người, thì khuôn hình nằm chỗ nào? Trên trán được không?"

Thấy hình ảnh ngộ nghĩnh quá, chị Trầm cũng thích thú cười lớn. Chị quên mất câu nói dở dang. Trầm phụ họa:

"Ừ, phải đấy. Nếu trên trán ai cũng có cái khuôn hình, thì tiện biết mấy. Óc nghĩ thứ gì, là hiện ngay thành chữ trên trán. Người khác đọc được liền, khỏi phải mỏi miệng nói hoặc lắng tai nghe"..

Tịnh nghĩ xa, vặn lại:

"Lỡ mình nghĩ lung tung?"

"Thì hình trên khung nhảy loạn xạ".

Tịnh chợt nghĩ đến ý định của mình, hỏi lại:

"Lỡ mình không muốn cho ai hay biết điều mình nghĩ?"

"Không được. Bấy giờ phải thành thực. Ai nấy đều trong suốt. Không còn giấu giếm được gì. Mà muốn giấu cũng được. Chỉ việc lấy tóc phủ khung hình lại".

Tịnh cười, chỉ vào mái tóc loà xoà của Trầm:

"Thế thì đàn bà lợi quá, không công bằng".

Chàng chợt nghĩ đến một trò chơi thú vị, buột miệng nói ngay:

"Chị buồn ngủ chưa? Chưa phải không. Hay mình chơi trò này đi. Tưởng tượng trên trán chị và trên trán Tịnh đều có khuôn hình cả. Chị đọc ý nghĩ của Tịnh còn Tịnh đọc ý nghĩ của chị. Ai đọc sai, bị phạt".

Trầm thấy trò chơi lạ lùng, thích chí bằng lòng. Trên khuôn mặt đượm buồn của cô gái ba mươi từ lâu nhẫn nhục cam chịu mọi thứ, phảng phất một sức sống mới. Nàng xoay người hẳn lại, đối diện với Tịnh, hai cùi chỏ chống lên bàn. Tịnh nhắc:

"Chị phải vén tóc cao lên chứ".

Trầm cười, hất cả mái tóc ra phía sau vai, hỏi Tịnh:

"Đã đọc rõ chưa?"

"Còn mờ. Phải điều chỉnh lại đài mới được. Chị ngồi yên nhìn thẳng nhé".

Trầm gắng ngồi yên, mặt ngước cao lên trần như một pho tượng ranh mãnh.

"Tịnh đọc được chưa?"

"Chưa. Thôi cho chị đọc khuôn hình của Tịnh trước".

Trầm cười nhẹ, tìm ý một lúc rồi chậm rãi đọc, như đứa bé mới học diễn văn:

"Được. Tịnh đang nghĩ: Ở.... đây... chán... quá... rồi. Đi... là.... phải".

Tịnh phản đối:

"Sai. Hoặc chị đọc lầm hoặc cái máy hư. Thôi để Tịnh đọc chị nhé: Mai... lo... dậy sớm".

Trầm cắt ngang:

"Đoán mò. Dĩ nhiên là chị phải dậy sớm để đi chợ".

"Nhưng Tịnh chưa đọc hết. Còn nữa: Qua rồi một ngày nhọc nhằn. Đi về cho người ta nghỉ".

Trầm lại cướp lời:

"Sai. Hoàn toàn sai. Cái truyền hình của chị tốt, nhưng loa phóng thanh của Tịnh tệ quá. Chữ hiện một đàng, đọc một nẻo".

"Thế chữ hiện cái gì?"

"Chị chỉ nghĩ: Không bao giờ, vâng, không bao giờ chị quên được đêm nay. Đêm cuối tiễn Tịnh lên đường. Cậu em ngoan.. Thật ngoan. Chưa bao giờ Hà cho chị những phút thích thú như Tịnh".

Tịnh thấy lòng nao nao, hơi hối hận vì đã có những ý định không đẹp ban đầu. Cái ý định bày thử một cuộc chơi, để trắc nghiệm khả năng đối với một người đàn bà. Để thấy cuộc đời mình vẫn còn có một ý nghĩa. Để tự an ủi rằng dù không trọn quyền định hết cả đời mình, mình vẫn có thể giữ trọn chủ động trong tầm tay ngắn. Chàng đâm lo âu, sợ mình đã đi quá xa, nên ngồi lặng một lúc, mắt mơ màng nhìn lên trần nhà. Trầm tò mò nhìn vẻ khác thường của Tịnh, lòng tràn hoài nghi. Nàng hỏi:

"Còn Tịnh thì đang nghĩ đến những chuyện xa, thật xa. Chị đọc thấy trên khung hình của Tịnh câu này: Ta buồn... ta nhớ... giá có Thuý Ngọc ở đây".

Tịnh giật mình, nhìn lại kỹ gương mặt Trầm, thấy vẻ phụng phịu giấu đằng sau sự mỉa mai khinh mạn cố tình. Chàng vội nói:

"Á à, cái máy phóng thanh của chị cũng tệ chẳng kém. Đang không lại chen chuyện Ngọc vào đây. Tịnh nói thật, Ngọc chỉ là một người quen, từ thời thơ ấu cho đến lúc đi học".

Trầm nghiêng đầu, vừa cười mỉm vừa hỏi:

"Thật không?"

"Thật trăm phần trăm".

"Nhưng khi nào nói đến Ngọc, chị vẫn thấy đôi mắt Tịnh long lanh. Như mấy cái đèn pha xe mười bánh, cực mạnh, bất chấp sương mù hay giông bão phía trước".

"Chị chỉ tưởng tượng".

"Chị có tưởng tượng đâu. Chị chỉ đọc trên khuôn hình của Tịnh mà biết đấy chứ".

"Chị đọc sai".

Trầm hồi hộp, e ngại một lúc, mím môi cố dằn nhưng không được, tò mò hỏi:

"Thế đọc đúng thì thế nào?"

Tịnh không chuẩn bị ý tưởng kịp, chần chờ hoãn binh:

"Đúng ư? Tịnh đang nghĩ... đang nghĩ như chị. Nghĩ đến buổi tối đẹp nhất trên đời. Nghĩ đến... nghĩ đến hình ảnh một chị Trầm khác hẳn chị Trầm thường ngày".

Trầm thích thú giục:

"Khác những gì? Sao mà khác?"

Giọng Tịnh cố làm ra mơ mộng:

"Một bà chị... một bà chị hiền như các bà chị hiền trong truyện thần tiên. Giọng nói nhẹ, ánh mắt âu yếm, tâm hồn hiền hoà. Tịnh mơ ước có riêng một người chị như vậy, suốt một đời".

Trầm đã biết được điều muốn biết. Nàng muốn ngộp thở vì xúc động. Trước mặt hình dáng Tịnh nhạt nhoà chỉ còn lờ mờ một cái miệng cười, một mái tóc đen. Nàng không tự chủ được, thú thực hết lòng mình:

"Tịnh làm chị sung sướng. Cả đời sống côi cút, không có lấy một niềm hy vọng. Có nhiều lúc chị có cảm giác không thể chịu đựng được nữa, muốn bỏ đi biệt đi mất, ra sao thì ra, dù..."

Tịnh cướp lời và Trầm nghe giọng nói của Tịnh có nhiều khác lạ, như cố dằn một niềm phẫn nộ bất chợt:

"Có bao giờ chị mơ ước đi tới một nơi nào đó, một nơi xa lạ, không ai quen biết mình, sống buông thả mặc tình với một người đàn ông đến trước, trong vòng một đêm, một ngày, hay một tuần, rồi bình thản lên xe về nhà, tiếp tục cuộc đời heo hút cũ".

Trầm nghe rõ lắm, nhưng chết lặng không biết trả lời thế nào. Nàng rơi hẳn vào một trạng thái hư đãng, phức tạp chưa bao giờ cảm thấy. Nàng thích thú vì khám phá rằng mình vẫn còn là một cái gì để kẻ khác mong ước, không phải là cái bóng vô nghĩa trước sự thờ ơ lạnh nhạt của khách đời. Nhưng đồng thời nàng thấy tủi nhục đến xót xa. Đó là sự khám phá hạnh phúc đồng thời với nỗi tan vỡ của ảo tưởng. Nàng thì thào:

"Em dám nói thế với chị hở Tịnh?"

Bây giờ Tịnh mới thực sự sợ hãi, hối hận đã có những ý tưởng quái đản phi luân đến như vậy từ đâu, và đã để cho ác quỉ dìu vào âm mưu xấu xa trong mấy ngày liền không cho chàng bỏ cuộc. Tịnh lí nhí:

"Xin lỗi chị. Tịnh quẫn trí mất rồi. Tịnh thật là một đứa hèn mạt, xấu xa".

Tịnh định tiến về phía Trầm, nhưng nàng giật mình lùi lại, giọng hốt hoảng:

"Thôi, khuya rồi. Tịnh về nghỉ mai còn đi sớm. Chị đã quên hết những lời em nói, dù là lời phải hay lời trái. Em của chị lên đường bình yên nhé!"

Tịnh không biết làm gì khác hơn là lặng lẽ chào Trầm, rồi ra khỏi quán. Lúc bước đến cửa, Tịnh nghe chị Trầm chạy theo nói với:

"Tịnh cho chị nhắn một chút. Nói giùm với Hà là chị đã nhận được thư. Chị sẽ tìm cách vào trước ngày Hà chọn đơn vị.

*
Hai người nói đủ thứ chuyện cho đến khi trời tối. Tịnh muốn cho Trầm thấy cảnh bên cầu đẹp đúng y như mình tưởng tượng. Trầm công nhận trí tưởng tượng của Tịnh chính xác và phong phú. Cảnh đèn trên cầu phản chiếu trên mặt sông đẹp thực. Nhưng sương bắt đầu xuống. Trầm và Tịnh trở lại con đường nhỏ ra cầu, rồi theo quốc lộ đi ngược lên bến xe. Phố xá lặng lẽ êm ả. Trầm thấy lòng xúc động, khe khẽ hát một câu dài. Tịnh lắng nghe, nhưng chịu không biết nàng hát bài gì, chỉ thấy điệu nhạc thong thả êm ả như tiếng chuông chiều. Đêm đã về. Bóng tối vây phủ hai người. Đêm guốc và tiếng giày vang vang trên đường nhựa, đều đặn, thanh bình. Chưa bao giờ Trầm được hưởng một cảm giác thoải mái nhẹ hẫng như vậy. Trầm thú thực:

"Nếu khi chiều không nghe lời Tịnh, thì đã phí mất một đêm đẹp trong đời".

Tịnh bảo:

"Khi nghe Hà đã đi đơn vị rồi, chị thiểu não như người mất hồn. Trông thảm lắm".

"Làm sao không buồn được. Đem tiền nong quần áo vào cho nó, không ngờ chỉ vào trễ có mấy tiếng đồng hồ. Nếu khi chiều có xe ra, chị đã về rồi. Mà làm sao em ra ngoài được?"

"Tịnh được phép ra phố mua đồ bếp cho đại đội. Vào trong này, em làm phụ bếp mà".

Chị Trầm cười:

"Thế bây giờ ông bếp cho tôi ăn gì đây?"

"Em sẽ đãi chị một bữa cơm ngon không thua quán cơm chị. Chỗ nầy khá lắm. Ăn xong, em sẽ đưa chị về đến tận cổng nhà trọ".

"Nói chơi vậy thôi, chứ tối nay Tịnh phải để chị trả tiền. Hôm trước Tịnh đến chào, lẽ ra chị phải làm việc tiễn hành. Chỉ tại Tịnh chờ đến giờ chót mới biết. Hôm nay chị xin thay thế một bữa tiệc khác".

Tịnh định từ chối, nhưng nghĩ đến bữa tối hôm trước khi vào lính, chàng ngượng ngùng liếc mắt dò xem thái độ chị Trầm. Chàng thấy chị không có chút hờn giận căm tức nào. Chàng lặng lẽ đi bên Trầm, miệng huýt sáo để giấu bối rối. Đến cái quán chỗ ngã ba, Tịnh hỏi:

"Hay mình vào đây?"

Trầm ngạc nhiên hỏi lại:

"Cái quán này vắng quá. Tịnh sợ buồn không?"

Tịnh cười chỉ về phía có ánh đèn ngũ sắc:

"Dưới kia thì lại ồn ào quá".

Trầm cho câu nói ấy ngầm chứa nhiều điều hứa hẹn, mặt đỏ bừng cúi xuống nhìn bước chân hai người trên sỏi, không nói gì. Tịnh thấy mình đi hơi xa Trầm, cố nhích lại gần hơn. Gió bể thổi mạnh vào bờ, hất tung tà áo xanh của Trầm lên trời, rồi dán chặt lên ống quần Tịnh. Trầm định cúi xuống kéo vạt áo lại, thì Tịnh cũng định cúi xuống gỡ vạt áo Trầm ra. Hai người cùng cụng đầu vào nhau. Trầm cười nhỏ, thẹn thùng:

"Chết. Tịnh có đau không?"

"Không chết. Vẫn sống nhăn răng. Nhưng chị có đau không?"

Hai người cùng cười lên sung sướng. Trầm quên hết e thẹn giữ gìn, cười hỉ hả, chạy nhanh xuống bờ cát. Nàng cúi xuống chỉ một con còng nhỏ đang sợ hãi chạy tìm chỗ núp dưới ánh đèn đường, rối rít bảo:

"Tịnh, Tịnh, lại đây. Trông con còng tội nghiệp chưa?"

Tịnh đến nơi thì con còng đã chui vào hang sâu. Chàng giả vờ hỏi:

"Tịnh có thấy con còng nào đâu?"

"Nó vừa chui vào đây rồi".

"Con còng hay con cua?"

Trầm bực tức cãi:

"Cua khác còng khác chứ. Con cua to bằng cả bàn tay. Còn con còng nhỏ tí tẹo mới chạy lăng quăng dây".

Tịnh nói:

"Tịnh thì chỉ thấy có cua mà thôi. Lại không phải cua sống biết bò. Chị có ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt trong gió hay không? Đố chị biết mùi gì nào. Cua ram muối đấy. Cua ram muối của Tịnh hấp dẫn ngon lành hơn con còng gió của chị".

Trầm hiểu ý Tịnh, chỉ ngón tay trỏ vào Tịnh trách:

"Đồ ham ăn. Ra biển, gần trời cao biển rộng, mà chỉ nghĩ tới cua ram muối. Phàm phu tục tử".

Rồi cười ròn rã. Hai người dắt nhau trở lại quán. Trầm nhường cho Tịnh tự chọn món ăn, rồi suốt buổi tối ngồi ngắm Tịnh ăn ngon lành. Tịnh lâu lâu nhắc:

"Sao chị không ăn chỉ ngồi cười?"

"Trầm có ăn đấy chứ".

"Đâu. Ly bia của chị còn nguyên và dĩa thịt gà phía chị còn đầy".

"Chị ăn nhiều mà. Không dám ống hết ly bia, sợ say".

Trầm nâng cốc bia lên uống một ngụm nhỏ cho có, rồi đặt cốc xuống, lấy đũa gắp một miếng thịt gà bỏ vào chén của Tịnh. Tịnh vội can:

"Tịnh ăn nhiều rồi. Chị ăn đi chứ".

Rồi gắp miếng thịt bỏ lại chén Trầm. Hai người cứ mời qua mời lại như vậy mãi, ép nhau ăn các thứ ngon, đến nỗi cuối cùng thức ăn trên bàn không còn gì cả. Trầm cũng uống luôn cả hai ly bia đầy. Không quen uống rượu, nàng thấy máu nóng bốc lên mờ cả mắt, trong đầu từng tiếng gõ đều gõ đều như nhịp búa. Ánh đèn từ quán chiếu lên khuôn mặt nàng càng làm tăng thêm vẻ hồng hào. Lần đầu tiên, Tịnh thấy Trầm khá đẹp. Còn Trầm thì đăm đăm nhìn chàng thanh niên khuôn mặt lãng mạn sầu mộng trước mặt, môi mím lên điếu thuốc, khói nhả ra từng ngụm thật khinh bạc tự tin. Lúc bấy giờ có nhiều người vào quán cười nói inh ỏi, lời lẽ tục tĩu. Trầm giả vờ không nghe thấy, còn Tịnh thì khó chịu gọi bồi tính tiền. Trầm giành trả. Tịnh không biết làm sao, chờ Trầm trả xong tiền rồi cùng với Trầm ra khỏi quán. Đêm đã về từ lâu. Trăng nhú lên khỏi mặt nước, làm hồng rực cả một vùng biển lặng. Tịnh thấy cảnh đẹp quá, đề nghị:

"Mình đi dọc theo bờ biển một chút cho đỡ nặng bụng. Chị có gấp về không?"

Trầm trả lời nhỏ: "Không", rồi chuếch choáng bước theo Tịnh. Hai người đi cạnh nhau bên bờ nước, càng ngày càng xa khúc biển náo nhiệt ồn ào. Gió nhẹ mơn man ở gò má, Trầm thấy khoan khoái giơ cả hai tay lên trời, bảo Tịnh:

"Đêm dễ chịu quá. Tịnh hãy đưa tay cao cho buồng phổi mở, hút hết mát dịu của gió. Bắt chước Trầm đây này".

Tịnh nhìn Trầm. Bấy giờ trăng lên cao hơn chiếu vào đôi mắt nàng, phản chiếu ánh long lanh. Trầm cử động đôi tay như lối trẻ con tập thể dục. Tịnh nhìn Trầm một lúc, trả lời:

"Chị phải làm cô giáo mới đúng. Nhưng Tịnh đâu phải là cậu bé mà chị dạy cách thở".

"Chị cứ thấy Tịnh là cậu bé như thường, tức không?"

"Tức chứ. Trước kia khi còn đi học, thì nhận là bé bỏng cũng được đi. Nhưng bây giờ Tịnh đã chì rồi. Tịnh là Phù Đổng Thiên Vương, ăn bữa tiệc chị đãi xong, vươn vai một cái, thành người lớn liền. Bây giờ Tịnh lại coi Trầm như một cô bé. Như một cô bé nhỏ".

Trầm cười không tin, giọng cười trong như thủy tinh, rạng rỡ dưới trăng. Nàng nói:

"Bậy quá. Đã mất tiền lại còn mất luôn tước người lớn. Nhưng làm cô bé cũng thú, chứ sao. Làm cô bé..."

Trầm vừa nói đến đó, thì chân bước hụt vào một hố cát. Nàng kêu lên, ngã quỳ trên cát ấm. Tịnh vội cúi xuống nắm cánh tay Trầm nâng dậy, miệng rối rít:

"Có sao không cô bé? Có việc gì không, cô bé của anh?"

Rồi, trong một thoáng, Tịnh muốn thi hành ý định một tháng trước. Không chần chờ, Trầm vừa đứng lên ngang tầm tay thì Tịnh đã ôm chầm lấy nàng, hai tay ôm chặt thân thể đang nóng bừng của nàng. Trầm mềm nhũn trong tay Tịnh, hai bàn tay chới với run rẩy một lúc rồi cũng ôm chặt lấy lưng Tịnh. Nàng ngả đầu ra phía sau, mắt nhắm nghiền, miệng thì thào:

"Tịnh... Tịnh. Có nhớ đêm hôm ấy... Tịnh đã hỏi chị. Chị muốn sống hết trọn với Tịnh, như cỏ cây, muông thú..."

Tịnh cảm thấy thân thể Trầm càng ngày càng nặng. Nàng đã bỏ thõng hai chân. Áo Trầm ươn ướt mồ hôi, và theo đà nhẹ nhàng lặng lẽ, Tịnh đưa bàn tay theo Trầm ngả dần xuống lủng cát ấm. Trầm nhắm mắt, miệng mỉm cười. Tịnh nghẹn không nói được gì. Chàng đã chủ định ngay từ khi nghe Trầm mời chàng đi ăn, nhưng tình thế biến chuyển đột ngột, đưa chàng vào cái thế thụ động. Vì vậy, Tịnh lặng người, hoang mang không biết phải làm gì, chỉ quì gối bên cạnh Trầm đầu óc bừng bừng, nước bọt trào ra ở đầu lưỡi. Trầm mở mắt say đắm ngắm Tịnh.

*
Tịnh và Trầm ra khỏi vùng huyền hoặc của trăng dãi, cát ấm, cỏ dại, đêm sâu lòng bần thần, rã rời. Hai người đi bên nhau, nhưng không ai nói với ai lời nào. Mãi tới lúc đến gần nhà trọ của Trầm, Tịnh cố nói một cái gì:

"Hoà bình rồi, thế nào Tịnh cũng được trả về. Lúc ấy..."

Trầm vội cắt lời, giọng nói vỡ đi vì hốt hoảng:

"Còn đánh nhau mà. Nhất định em không về được đâu".

Nói xong, Trầm đi nhanh vào cổng, như chạy trốn. Tịnh nghe thoang thoảng trong câu nói cuối cùng của Trầm, có cái gì giống như một niềm mong ước mâu thuẫn đến kỳ dị, xót xa.


Tiếng đàn thầm

Vợ chồng ông Tâm và lũ con lếch thếch đi bộ từ phố về nhà. Con Lan và thằng Vũ hí hửng chạy theo ba mẹ, mừng quá quên cả đoạn đường dài. Con Lan mím môi cố giữ không cho cái mũ ni lông mới bay xuống đường cái lầy lội. Còn thằng Vũ tay xách đôi dép Nhật cũ, cứ chạy một đoạn phải dừng để sửa lại đôi tất mới và đôi giày da hơi rộng. Bà Tâm cười thật tươi, khoe với chồng rằng ký mực bà vừa mua rẻ hơn hôm qua đến ba trăm đồng, bù lại gói bột dưa đắt hơn hôm qua một trăm đồng. Cuối cùng vẫn còn lợi hai trăm, đủ mua hai hộp sữa cho thằng Út. Chỉ có một mình ông Tâm không được vui:

"Lợi đâu không thấy, chỉ thấy cái cảnh cuốc bộ hộc xì dầu mà thôi. Em bắt anh ôm xách đủ thứ lỉnh kỉnh, không còn thấy đường mà đi nữa. Em coi thử có chiếc cyclo nào không, kêu lại chở một lượt về thẳng nhà cho khỏe".

Con Lan mau miệng:

"Có một chiếc kia kìa ba. Để con kêu cho".

Bà Tâm chưa kịp ngăn, con bé đã gọi lảnh lói:

"Cyclo, lại đây mau".

Nhưng bác phu xe cứ cắm cổ đạp xe đi thẳng. Ông Tâm thất vọng, còn bà vợ có vẻ thích thú, nhẹ nhàng giải thích cho chồng:

"Bây giờ đã sáu giờ chiều ba mươi rồi. Người ta còn lo về dọn dẹp rước ông bà, ai đâu làm thuê chở mướn nữa mà gọi cho mất công".

Ông Tâm không biết giải toả nỗi bực dọc bằng cách nào, ngập ngừng một lúc, rồi sừng sộ với vợ:

"Phải. Bây giờ đã chiều ba mươi rồi. Chỉ còn mấy giờ nữa là giao thừa. Nhưng đã biết vậy, thì sao không lo mua sắm mọi thứ cho xong hôm qua hôm kia đi. Chờ đến phút chót, lúc người ta đóng cửa dẹp hàng, mới chụp giật hối hả rước toàn đồ dư đồ thừa về".

Bà Tâm phụng phịu nét mặt. Bà muốn trả lời liền, nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Ông Tâm hơi ngạc nhiên không nghe vợ nói gì, liếc nhìn bà Tâm một chút rồi tiếp tục bước. Ông e dè liếc nhìn lần nữa, bảo nhỏ:

"Đôi giày em mua cho thằng Vũ đẹp lắm. Vừa chắc chắn lại vừa nhã".

Bà Tâm giữ yên lặng. Ông Tâm nói:

"Trông con Lan nó đội cái mũ đỏ có dễ thương không. Má nó hây hây. Con nít nó khác, chỉ biết cười đùa không biết lo lắng gì".

Bấy giờ bà Tâm mới bảo chồng:

"Đâu phải chỉ có con nít mới vô tâm. Đàn ông cũng vậy. Em ráng tiết kiệm từng đồng, làm sao cho khỏi mang nợ, anh không chịu hiểu. Lại còn dằn vặt em nữa".

Ông Tâm biết mình có lỗi, không dám nói gì thêm, lặng lẽ bước bên vợ. Từ đó về nhà, ông có cố ý làm hoà với vợ đôi ba lần, nhưng lần nào cũng thất bại. Bà Tâm thản nhiên bước, làm như không hề biết đến sự có mặt của người phu khuân vác cần cù bên cạnh. Cả đến lúc con Lan thằng Vũ bỏ ba mẹ chạy nhanh vào ngõ reo lớn:

"Về mau khoe đồ mới với ông nội. Bước nhanh lên mẹ".

Bà Tân vẫn không trả lời. Thấy nguy hiểm, ông Tâm cố gắng giảng hoà lần cuối cùng:

"Vô nhà để việc xếp đặt bàn ghế anh lo. Chừng nửa giờ là xong ngay. Mình lấy tạm cái bàn học con Lan làm bàn thờ. Em chê cái bàn dính mực cùng khắp phải không? Khỏi lo. Chỉ việc lấy tấm drap xanh phủ lên là xong ngay. Mình dẹp bớt mấy cái ghế, cái giường bố, khiêng thùng đồ giặt bỏ sau bếp, là đủ chỗ kê bộ sa lông mây. Dĩa mứt, bình nước trà, chai rượu Anis, gói thuốc Mélia, bao diêm, bấy nhiêu đó là đủ tươm tất. Em thấy không, anh có khiếu mỹ thuật và óc tháo vát nhanh nhẹn trời sinh. Phòng khách dã chiến của mình không thua thiên hạ bao nhiêu đâś.

Vào phía trong cổng, bà Tâm mới hỏi chồng:

"Còn cái đàn anh định dẹp đi đâu?"

Ông Tâm khựng lại, không biết trả lời thế nào, hỏi vợ lần nữa:

"Em nói cái gì?"

"Em hỏi anh định dẹp cái đàn đi đâu?"

"Cái dương cầm của ông cụ hả?"

"Còn cái đàn nào nữa. Thùng đồ giặt bỏ sau lưng cái đàn. Dẹp thùng đồ giặt vào bếp, còn cái đàn có dẹp vào bếp không?"

Ông Tâm không trả lời, yên lặng theo vợ vào nhà. Cửa trước chỉ khép hờ, tiếng con Lan tíu tít:

"Ông nội, con có cái mũ mới. Con quăng cái mũ cũ vào thùng rác rồi. Nội thấy cái mũ của con có đẹp không?"

Rồi tiếng thằng Vũ:

"Còn con thì có đôi giày. Với đôi tất nữa".

Ông Tâm vào nhà, thấy cha vẫn ngồi ở chỗ cái dương cầm hư như thường lệ. Hai bàn tay gầy guộc của ông cụ còn trải đều trên hàng phím trắng. Ông nội ngừng đàn, nghiêng người hỏi hai cháu:

"Ờ, bài đó hay lắm. Của ông nội với một người bạn hợp soạn đó. Để ông nội đàn cho cháu nghe nhé".

Con Lan nhanh nhẩu cải chính:

"Không. Nội nghe sai rồi. Tụi con hỏi nội có thấy cái mũ, đôi giày ba me mua cho tụi con đẹp không".

Giọng ông nội vẫn đều đều, như vọng từ một thế giới khác:

"Ờ, bài này hơi khó hát một chút. Thời đó chỉ có cô Bích Liên hát nổi bài này của nội mà thôi. Nhất là chỗ láy ở cuối bài. Khó diễn tả cho đúng lắm. Này, cháu nghe đây".

Rồi ông cụ xoay người lại, ngồi ngay ngắn trước cái dương cầm, hai bàn tay xương xẩu lượn lờ trên phím. Đầu ông cụ gật gật theo nhịp đều, đôi vai xuôi rung động, nhưng từ cái dương cầm, không có âm thanh nào phát ra cả. Ông Tâm thấy thương cha tràn trề, đứng lặng chỗ cửa ra vào quên cả việc đặt mấy gói đồ kềnh càng xuống sân nhà. Bà Tâm thúc hông chồng hỏi nhỏ:

"Anh thấy không? Ông cụ đâu có chịu rời cái dương cầm. Đố anh dẹp đi được. Chỗ đâu mà đặt bộ sa lông mâyś

Thằng Vũ chạy lại phân trần với me:

"Mua đôi giày khác đi me. Nội chê đôi giày xấu, con hỏi có đẹp không, nội lắc đầu không nói".

Bà Tâm tìm cách giải thích cho đứa con cưng:

"Nội đâu có chê. Nội công nhận đôi giày của con đẹp, đẹp lắm. Nhưng nội giận Vũ, vì hôm trước Vũ phá cái đàn cưng của ông nội, nên nội lắc đầu không trả lời".

Thằng Vũ cãi lại:

"Đâu phải con phá. Chị Lan bảo làm vậy cho bớt ồn, đâu phải một mình con làm".

Con Lan cũng không vừa:

"Đâu phải con bảo. Tại me..."

Nói đến đó, con bé chợt nhớ điều gì, ngừng lại kịp thời. Con Lan liếc nhìn ông Tâm, ánh mắt giả vờ sợ sệt một cách ranh mãnh. Bà Tâm cười xoà, nói với chồng:

"Ba nặng tai không nghe gì đâu. Cái dương cầm hư, kêu ột ệt chẳng ra làm sao cả. Thế mà ba cứ tưởng đàn vẫn còn tốt, ngồi đánh say sưa. Em không chịu nổi, có bảo con Lan nó chêm giấy cho khỏi kêu. Anh đừng giận, ba có nghe gì đâu mà biết".

Bây giờ ông Tâm mới hiểu vì sao từ một tuần nay, chiếc dương cầm không còn phát âm được nữa. Ông nhận rằng vợ đã làm đúng. Ông nội bị điếc nặng không nghe được gì. Căn nhà thuê lại quá chật. Trưa tối sau buổi làm về, cả hai vợ chồng ông Tâm đều cần chút yên tĩnh nghỉ ngơi. Thằng bé Út lại hay sảy thức, mỗi lần ông nội đưa tay lên phím cái dương cầm cũ là thằng bé giật mình khóc thét.

Khốn nỗi ông Tâm không có can đảm nói cho cha hiểu. Ông cụ trước kia là một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng. Cây đàn là người bạn đời thân nhất trong cuộc đời nhọc nhằn cay đắng, từ khi người bạn đời xinh đẹp hiền hoà khác mất đi, bỏ lại cho ông cụ ba đứa con nheo nhóc. Bà nội vốn giỏi chuyện buôn bán tảo tần, một mình quán xuyến hết mọi việc gia đình. Thủa đó, nhờ thừa hưởng một gia tài khá đồ sộ và nhờ tài nội trợ của người vợ hiền, cả ngày ông nội chỉ lo chuyện đàn hát với bạn bè. Bà nội mất, đột nhiên ông nội cảm thấy đời sống bấp bênh, mất hẳn sự quân bình. Ông nội tiếp tục sống cuộc sống cũ, trong lo âu. Tiếng đàn của ông nội có vẻ hối hả, ray rứt. Không còn những âm thanh khoan thai trong sáng thời xưa. Rồi cái gì phải đến, đã đến. Gia tài khánh kiệt, thực tế cơm áo trước mắt không còn có cách nào quay mặt trốn tránh. Ông nội phải bán rẻ tiếng đàn nuôi con. Tính tình ông nội đổi khác, trầm ngâm ít nói, nét mặt u uất ưu tư. Ông nội luôn giữ khoảng cách lạnh lùng với mấy đứa nhỏ. Trong trí nhớ, ông Tâm chỉ thấy cha mình ngồi hàng giờ trước dương cầm, miệng hát khe khẽ, hết đưa tay lên hàng phím lại ghi ghi chép chép.

Cả ông Tâm lẫn hai người em trai không ai thích tiếp nối cái nghiệp dĩ nặng trĩu của cha già, nên kẻ làm công chức, kẻ đi lính, kẻ đi buôn.

Vì thế, ông nội chỉ còn một người bạn già: chiếc dương cầm. Khốn nỗi tuổi ông nội càng cao, đôi tay càng run, tiếng đàn càng rời rạc mệt mỏi thì chiếc dương cầm càng cũ kỹ, hư hao. Dây đàn chùng, thùng đàn vỡ, tiếng nghe không còn đúng nữa. Khi ông Tâm tìm được việc làm nuôi em thì ông nội cũng vừa bị cho thôi việc. Không biết làm gì qua ngày, ông nội cứ ôm lấy cây đàn cũ. Hai ba lần ông Tâm bị đuổi nhà, mỗi lần dọn đến chỗ ở mới, ông nội chỉ lo chở cái đàn của mình đi theo. Lần dọn nhà cuối cùng vào mùa thu năm trước, tuy căn nhà thật chật chội, ông cụ vẫn bắt buộc con cái dành chỗ tốt nhất cho chiếc dương cầm. Bà Tâm bực bội, nhiều khi nói nhiều câu quá nặng. Ông Tâm xót xa, nhưng chỉ biết làm ngơ. Ông ở vào cái thế khó xử. Ông khổ sở, đôi lúc phải mắng át cho vợ khỏi nói nữa. Ngay lúc này, ông biết sợ lại sắp đề cập đến chuyện dương cầm.

Ông sợ, đành cam chịu, chờ đợi. Rồi điều ông đợi đã đến. Bà Tâm nhắc chồng:

"Kìa, anh làm gì mà đứng như trời trồng vậy. Tìm chỗ đặt mấy cái gói xuống chứ. Anh nhìn quanh xem, còn chỗ nào đặt xuống không?"

Ông Tâm còn đang phân vân, thì bà vợ nói tiếp:

"Thôi anh bỏ tạm đằng cái giường con Lan, rồi đem cái bàn mây vào xem sao. Không có chỗ cho khách ngồi, thì mời họ ngồi lên cái ghế dương cầm cũng được".

Ông Tâm sợ sệt bảo vợ:

"Em để mặc anh lo. Ra phòng sau xem thử thằng Út thức dậy chưa. Con ở đi đâu không thấy coi nhà?"

Con Lan nhanh miệng mét:

"Lúc con về, con thấy chị ở đứng nói chuyện với thím Tư".

Thằng Vũ thì đòi mở gói hột dưa:

"Cho con nắm hột dưa đi ba. Con biết cắn hột dưa rồi".

Bà Tâm mắng:

"Vũ, không được hỗn. Hột dưa chưa cúng, chưa được ăn. Hỗn mang tội".

Rồi bà quay về phía chồng:

"Anh liệu xếp bàn thờ chỗ nào? Hẹp thế này, kê bàn học của con Lan làm sao vừa. Hay là.... hay là lập bàn thờ trên cái đàn dương cầm?"

Ông Tâm bị chạm vào chỗ nhột, phản ứng một cách gay gắt:

"Em cứ nói thẳng là muốn vất quách cái đàn lên xe rác, chứ đừng nói quanh co nữa. Đừng có dằn vặt mãi, anh không chịu nổi đâu".

Bà Tâm cũng không vừa:

"Trong nhà này, ai dằn vặt ai? Ai làm khổ sở ai? Anh hay là tôi? Mình không có tiền thì chờ chợ tàn đi mua đồ thừa, tiết kiệm được đồng nào hay đồng ấy. Tôi đàn bà yếu ớt còn chịu khó đi bộ cho đỡ tiền xe. Ai cằn nhằn càm ràm từ chiều đến giờ? Mình nghèo thì chịu ở chật. Nhà chật thì phải khéo xếp đặt. Ai đặt chương ướng..."

Ông Tâm cắt ngang lời vợ:

"Em không được nói động đến ba. Mình làm con, đã không đủ điều kiện phụng dưỡng đầy đủ thì phải..."

Bà Tâm cũng cắt lời chồng:

"Nhưng các chú làm ăn phát đạt, nhà cao cửa rộng sao không rước ba về phụng dưỡng, chỉ để mặc một mình anh lo. Các chú không phải là con à?"

"Em nói gì lạ vậy. Mình là con trưởng, phải..."

Bà Tâm lắc đầu chán nản:

"Bao giờ anh cũng chỉ nhắc lại có bấy nhiêu. Mà thôi. Để tôi lo dọn thứ gì ăn qua quít cho lũ trẻ đi ngủ. Lan, con qua kêu chị ở về cho me. Còn thằng Vũ cởi giày ra đi. Để cho mới mai còn đi lại các chú xin lì xì".

Chờ cho vợ dẫn con đi khuất sau tấm vách ngăn, ông Tâm mới đi về phía cha. Kề sát miệng vào tai ông cụ, ông Tâm nói lớn:

"Thưa ba, đi nằm một lát cho khỏe rồi còn dùng cơm".

Ông cụ gật đầu, nhưng vẫn cứ ngồi trước cái dương cầm, không chịu đứng dậy. Ông Tâm nhắc lại:

"Ba nghỉ một lát, ăn cơm tối rồi còn đón giao thừa. Chỉ còn bốn giờ nữa là hết năm Tí, ba có nhớ hay không?"

Ông cụ ngừng đưa tay trên phím, ngước nhìn con trả lời:

"Được lắm chứ.. Bài này hay lắm. Âm thanh cuồn cuộn, như thác lũ. Hồi còn trẻ, ba chơi bản này, xúc động đến muốn khóc. Ba..."

Ông Tâm không để cho cha già nhắc lại điệp khúc cũ, nâng hẳn người ông cụ lên. Ông cụ không nói nữa, để mặc cho đứa con trai trưởng dẫn ra phòng sau. Bà Tâm và chị ở đã dọn cơm xong. Hai đứa nhỏ đòi me bỏ thức ăn đầy đủ vào chén ra ngồi trước cửa vừa ăn vừa nhìn xe cộ qua lại. Chỉ còn ba người lớn ngồi ăn lặng lẽ dưới ánh đèn điện vàng lù mù. Gần chỗ cửa sổ, chị ở nắm tay nôi đong đưa cho thằng nhỏ thôi ậm ọe cựa quậy. Lũ trẻ xem xe cộ chán, quay trở vào tíu tít hỏi me chừng nào cúng tết để chờ. Bà Tâm nhìn đồng hồ bảo còn hơn ba giờ nữa. Con Lan cương quyết bảo là con sẽ đợi. Thằng Vũ bắt chước bảo con cũng đợi. Nhưng hai đứa trẻ đều ngủ lăn quay trên giường bố trước khi ông Tâm và chị ở lôi được cái đàn dương cầm vào sát vách để khoảng nền nhà còn lại đủ rộng mà đặt bàn thờ. Bà Tâm liếc dò gương mặt chồng, mỉm cười xin lỗi. Ông Tâm nhếch mép cười lại, gương mặt ngậm ngùi. Bên kia vách, ông cụ húng hắng ho. Hình như tiếng chân dương cầm kéo lê trên nền xi măng đã đánh thức ông cụ dậy. Hai vợ chồng ông Tâm nín thở nghe ngóng một lúc, rồi tiếp tục xếp đặt cho xong hương án và bộ sa lông để mai tiếp khách. Chị ở có ý muốn chờ giao thừa với ông bà chủ, nhưng đến mười một giờ khuya thì chịu thua con ma ngủ.

Hai vợ chồng ông Tâm lặng lẽ chuẩn bị đón năm Sửu, lòng lâng lâng không phân biệt được là niềm vui mới nhú hay là nỗi buồn còn lại. Ông Tâm bỏ áo sơ mi vào trong quần, định lấy cái cà vạt xanh thẫm mang vào nhưng sau nghĩ sao lại mở tủ lấy cái áo lương mặc choàng bên ngoài. Bà Tâm chải lại tóc, mặc cái áo dài nâu may tháng trước, bưng ba đĩa bánh mứt lên bàn thờ, gắn cặp đèn sáp hai bên lư hương, đặt sẵn bao diêm bên bì nhang loại rẻ tiền. Sửa soạn xong đâu đó, bà thì thào hỏi chồng:

"Còn bao lâu nữa mình?"

Ông Tâm xem đồng hồ bảo:

"Còn mười phút nữa".

"Có nên thức ba dậy cho ba cúng giao thừa không?"

Ông Tâm suy nghĩ một lúc, rồi trả lời:

"Thôi. Khỏi cần. Để cho ba nghỉ. Năm ngoái chính ba nhắc anh thức ba dậy để cúng rước. Năm nay ba không nhắc. Tai ba nặng thêm. Anh hơi buồn, vì ba không còn được như năm trước. Ba đã lẫn".

"Còn mấy phút nữa, mình?"

"Còn sáu phút nữa. Em lo rót nước sôi trong tẹt-mốt vào bình trà đi. Cho anh bao diêm để đốt nhang".

"Bao diêm em để sẵn đó rồi".

"Nhưng cắm nhang vào đâu? Lư hương chỉ làm cảnh mà thôi".

Bà Tâm cuống quít:

"Em quên mất. Còn mấy phút nữa? Ba phút à? Em chạy xuống bếp lấy cái ly đựng gạo lên liền, chắc kịp".

Lúc bà Tâm trở lên, đồng hồ vừa chỉ đúng mười hai giờ. Ông Tâm thì thào:

"Giao thừa. Lắng chờ thử năm nay họ có bắn súng thay pháo không".

Hai vợ chồng lắng nghe một lúc không thấy gì. Ông Tâm nhớ đến phận sự trước, vội bật diêm thắp nến, đốt nhang lầm rầm khấn khứa trước bàn thờ. Lạy xong, ông đứng sang một bên nhường chỗ cho vợ. Bà Tâm cầu nguyện tham lam hơn chồng, đôi mắt say sưa, thành kính. Ông Tâm hơi nóng ruột, chờ vợ lạy xong đến gần thì thào:

"Sang năm Sửu rồi. Thêm một tuổi nữa, em có buồn không?"

Bà Tâm xúc động, không trả lời ngay. Một lúc sau, bà ngước nhìn chồng nói nhỏ:

"Em không buồn. Em già thêm một tuổi, thì anh cũng già thêm một tuổi".

Ông Tâm không ngờ vợ nói được một câu dí dỏm đúng lúc như vậy, định nói một câu thật tếu, thì giật mình vì tiếng súng nổ ngay bên cạnh nhà. Bà Tâm hốt hoảng nép sát vào chồng hỏi:

"Cái gì vậy mình?"

Ông Tâm trấn an:

"Không có gì đâu. Chú Tư thiệt gan cùng mình. Đã có lệnh cấm, vẫn ngứa tay bóp đại một phát cho đã. Mai chắc chắn lôi thôi với cảnh sát, không tránh khỏi đâu..."

Nói đến đây, ông Tâm đột ngột ngưng lại. Ông đưa mắt ra dấu cho vợ. Bà Tâm nhìn theo hướng nhìn của chồng, thấy ông nội bước qua cửa ngăn, đi ra phòng trước như một người mộng du, ông cụ nhìn bàn thờ, nhìn hai con khẽ gật đầu, tỏ dấu tán thưởng. Rồi ông cụ đi thẳng về phía cái dương cầm. Ông Tâm lo sợ, nói thầm với vợ:

"Chắc ba sắp nổi cơn lôi đình, hỏi tại sao dám đẩy cái đàn của ba đi chỗ khác".

Bà Tâm trong sợ hãi cũng quên là ông cụ bị điếc nặng, thì thào:

"Chứ biết làm sao. Không đẩy vào sát vách, chỗ đâu lập hương án. Ba phải hiểu nhà mình chật chội".

Nhưng ông nội không quở mắng gì. Ông cụ đến ngồi trước đàn, yên lặng suy nghĩ một chút rồi đưa tay lướt trên phím. Đầu ông cụ gật gật đánh nhịp.

Ông Tâm thấy lòng xót xa, rơm rớm nước mắt bảo vợ:

"Năm Sửu chắc ba lẫn hơn. Khuya khoắt mà còn dậy đánh đàn".

Bà Tâm không nói gì, nên căn phòng yên lặng hoàn toàn. Tiếng đàn lặng lẽ vẫn tiếp tục làm đau nhói tâm hồn ông Tâm. Ông không thấy gì khác hơn là một đêm tối mênh mông trước mặt. Ánh sáng nơi bàn thờ nhoè qua nước mắt. Hình dáng người vợ chao qua chao lại, như một ảo ảnh. Rồi ông nghe vợ bảo:

"Mình, hình như ba đang nói gì đó. Hãy lắng nghe xem".

Ông Tâm lấy ống tay áo chùi nước mắt, đăm đăm nhìn cha. Ông lắng nghe.

Bà Tâm thì thào:

"Hình như ba vừa đàn vừa hát, phải không?"

Ông Tâm chú ý hơn nữa. Vợ ông đã nói đúng, ông cụ vừa đưa tay lướt trên phím đàn câm, vừa hát theo. Phải mất một lúc lâu, ông Tâm mới nghe thoang thoáng được vài câu hát của cha mình. Bà Tâm lại hỏi:

"Ba hát bài gì nghe quen quen".

Ông Tâm ra dấu cho vợ im lặng, lắng nghe tiếp giọng hát khàn khàn của cha già. Bà vợ không nhịn được tò mò nữa, hỏi:

"Ba hát bài gì mà say sưa vậy, mình?"

Ông Tâm nắm tay vợ, ngậm ngùi làm run tiếng nói:

"Anh không biết chắc. Hình như bài XuânTuổi trẻ của La Hối".


Vách đá cheo leo

Cu Tý chờ không được nữa, lên tiếng giục:

"Mặt trời sắp lặn rồi nội. Mình về thôi".

Ông lão không trả lời đứa cháu nhỏ, cố nheo mắt nhìn vào lùm cây rậm bên bờ suối. Thằng bé không chịu thua:

"Nội không chịu về thì con về trước. Mai con không theo nội nữa đâu".

Ông lão gắt:

"Mày đi theo chỉ làm rối ông chứ được ích gì. Để yên cho ông tìm sợi mây cột bó củi đã. Nội mới tìm được có một sợi thôi.

Cu Tý chộp được cơ hội chứng tỏ mình cũng là người hữu ích, chạy đến lay tay ông nội:

"Để con chỉ cho. Chỗ lùm cây này không có sợi nào đâu. Chỗ phía trên gành có nhiều mây lắm".

Ông lão gật gù, lầm bầm điều gì trong mồm, vui vẻ theo chân đứa cháu nhỏ. Hai ông cháu vừa làm việc vừa kháo nhau chuyện bán củi hôm qua. Cu Tý bảo:

"Mình bán đủ củi cho lò bánh xong, thì đi chặt bổi bán cho lò gạch".

Ông lão nhận xét:

"Ừ, tao chặt trụi hết cả rừng dày, mà chưa lấp nổi mấy cái lò háu ăn".

Cu Tý không hiểu, hỏi lại:

"Nội nói cái gì?"

"Tao nói mấy cái lò háu ăn, hiểu không?"

Vừa nói ông lão vừa chỉ vào miệng cu Tý đang há hốc ra kinh nhạc. Ông lão giải thích thêm:

"Tụi bay ăn dữ quá, một bữa năm sáu chén cơm đầy, làm cho nội chặt trụi cả cây rừng đem bán vẫn chưa đủ tiền mua gạo".

Rồi ông lão trầm ngâm, lời nói giống như một tiếng thở dài:

"Đáng lẽ tới tuổi này, tao chỉ ngồi vuốt râu uống nước trà, chờ cha tụi bay nuôi. Nhưng Trời không chiều lòng người, biết làm sao giờ".

Cu Tý mãi nghe, không chịu kéo mạnh dây mây để siết chặt lưng bó củi. Ông lão nhắc:

"Con kéo mạnh cho nội chứ. Miệng nói, tai nghe, nhưng tay đừng quên làm".

Cu Tý cười, giúp ông nội bó củi còn lại. Để chữa lỗi, nó lăng xăng chạy lấy cây đòn xóc đem lại cho nội, phụ với ông cắm mạnh đầu nhọn cây đòn vào phía dưới dây buộc. Hai ông cháu vừa làm việc vừa cười đùa. Xong đâu đấy, ông lão hỏi cháu:

"Bây giờ cháu muốn gì? Vác rựa cho ông, hay là đi tay không để nhặt đá cuội về chơi ô làng?"

Cu Tý phụng phịu:

"Hôm qua con mất công đem về, tụi nó khóc la giành hết của con. Bữa nay con không thèm nhặt nữa. Để con vác rựa cho nội".

"Vậy càng tốt. Đem về bỏ lăn lóc thêm dơ nhà. Nào, chúng mình về".

Ông lão chậm chạp khom lưng xuống, kề vai vào dưới đòn xóc, bậm môi lấy gân nhấc gánh củi đứng dậy. Sức nặng đè lên đôi vai già làm cho ông lão xiểng tảng một chút, nhưng ông gắng gượng giữ được thăng bằng. Ông đứng yên một chỗ nhún nhún vài cái cho quen vai, rồi vịn một tay vào bờ đá bắt đầu bước.

Cu Tý chạy trước ông nội, đôi chân nhỏ chuyền liếng thoắng trên các mỏm đá như con sơn dương hí hửng. Tự nhiên nó thấy hồn rộn rã. Nó quên mất gánh nặng của nội. Đến lúc nhớ lại thực tế, nó hốt hoảng khi quay nhìn sau lưng không thấy cái dáng chậm chạp khắc khổ của nội đâu cả. Cu Tý chạy ngược trở lại, qua khỏi một khoảng truông rậm quanh co, mới thấy ông nội đang ngồi bệt bên đường, gánh củi đặt sát bờ đá. Cu Tý hỏi:

"Nặng quá phải không nội?"

Ông lão chưa kịp trả lời, đứa bé đã nói tiếp:

"Con đã bảo bấy nhiêu đủ rồi, không cần chặt thêm nữa. Nội không nghe. Nội cứ sợ người ta chê ít, mai không mua của mình. Gánh củi của bác Ba ít chứ đâu có nhiều như gánh củi mình. Mà lò bánh họ có nói gì đâu. Con..."

Ông lão ngắt lời:

"Không phải đâu. Đừng lải nhải nội bực lắm. Gánh củi này thấm gì. Nhưng mắt nội hơi yếu. Nội vấp hòn đá. Sợ móng chân cái tróc ra mất".

Cu Tý sợ hãi ngồi sà xuống trước mặt ông nội. Ông nội đã nói thật. Ngón chân cái bên phải của ông lão đầy cả máu, và mỗi lần ông lão ấn ngón trỏ vào móng, thì máu lại trào ra. Cu Tý cuống quít không biết làm gì, cứ hỏi:

"Làm sao hở nội? Làm gì bây giờ hở nội?"

Ông lão hơi bực gắt đứa cháu:

"Mày làm gì mà la nhặng lên thế? Đi rừng vấp chân chảy máu là thường chứ có gì đâu. Vạch quần đái lên chân ông nội cho sát trùng, rồi chờ cầm máu mình lại gánh củi về".

Cu Tý không dám nói gì thêm, vâng lời ông lão, đi tiểu lên chỗ bị thương. Thấy bụi đường văng lên chỗ lở, nó nhắc:

"Ông để chân lên hòn đá cho sạch".

Ông lão thấy cháu nói có lý, dời bàn chân đau lên chỗ mặt đường có tảng đá phẳng. Cu Tý hơi khom người xuống để nước tiểu rơi nhẹ lên ngón chân, cho nội khỏi đau. Ông lão thấy cháu có ý tứ, cảm động, vỗ vỗ lên vai cu Tý:

"Sao con biết nội bị vấp mà quay lại?"

Cu Tý nói dối:

"Con cứ chạy một quãng lại nhìn trông chừng, sợ nội theo không kịp".

Khi cu Tý tiểu xong, ông lão bảo:

"Thôi, được rồi. Để nội ngồi yên một chút cho máu hết chảy, mình lại bắt đầu đi. Con không thích lượm đá cuội nữa sao? Ông nói đùa, ông không la đâu. Lại chỗ lòng suối kia tìm mấy viên nhỏ và tròn đem về chia bớt cho mấy em".

Cu Tý đi rồi, ông lão nhìn lại ngón chân cái của mình. Tuy hơi rát, nhưng máu đã bớt chảy. Đầu móng chân bị vẹt đi một chút, để lộ mảng thịt hồng. Ông lão dáo dác nhìn quanh, tìm lại viên đá đã làm cho chân ông đau. Nó nằm cách đó không xa. Ông lão nghiêng mình với tay nhặt lên. Viên đá nhỏ xù xì, đầy góc nhọc sắc chẳng kém mũi dao. Lòng tự nhiên tức giận, ông lão cầm viên đá giơ lên cao, lấy đà, định ném thật xa cho rơi tõm xuống khúc suối nước đục. Nhưng vào phút cuối, ông lão dừng lại. Ông nhìn hòn đá chăm chú một lần nữa. Viên đá mầu mỡ gà, nhưng chằng chịt những đường chỉ đỏ như gân mái trong lòng mắt người già. Ông lão nghĩ: Trong thân thể mình, chắc cũng có những đường máu chằng chịt như thế này. Nhờ thế khi bị vấp, máu chỉ rịn dần dần chứ không tuôn xối xả. Ông lão tự nhiên thấy viên đá trở thành quyến luyến. Ông cảm thấy, mơ hồ, trên cái dáng xù xì lồi lõm, bằng những mầu sắc hỗn tạp chỗ vàng chỗ trắng chỗ xám chỗ đỏ, một gương mặt chập chờn. Chỗ nhô ra này có thể giống với chóp mũi con chó nhỏ, nhưng chỗ lõm này lại giống cái miệng người. Ông tìm đôi mắt. Tuyệt nhiên không thấy đâu. Chỉ thấy các đường gân máu trên má trắng. Ông chợt nhớ viên đá đã làm cho ông chảy máu chân, nên săm soi tìm kiếm xem còn dính đâu đây không. Vẫn tuyệt nhiên không thấy đâu. Hay là mình lầm với một viên đá khác. Mình có vấp vào một viên đá, nhưng có thể viên đá này vô tội. Tay ông mân mê viên đá xù xì, dần dần cảm thấy hơi ấm mặt trời chuyền từ viên đá qua tay mình. Khám phá ấy làm cho ông lão xúc động, ngồi lặng trầm ngâm. Sức sống của mặt trời truyền vào tấm thân tàn tạ này, giữa lúc hoạn nạn và trong bóng chiều ủ dột khiến ông nôn nao. Ông nhìn thẳng trước mặt, chỉ thấy màu lục chập chờn, không khi gió lay động chòm râu bạc, từng sợi từng sợi phất phơ. Nếu đứa cháu không trở lại, chắc ông lão còn ngồi trân như vậy lâu lắm. Cu Tý khoe:

"Con chọn được 25 viên cuội trắng. Mỗi đứa được năm viên. Con chỉ sợ thằng Mãnh lại đòi phần của con Lý".

Thấy ông nội vẫn còn ngơ ngác, cu Tý hỏi:

"Đau lắm phải không nội? Đã hết chảy máu chưa nội?"

Ông lão giật mình, trả lời lấy có:

"Hết rồi con".

"Nội vấp vào chỗ nào đâu?"

Ông lão nghe cháu hỏi, vội giấu viên đá đang cầm nơi tay trái vào lòng.

Cu Tý không chú ý, tiếp tục hỏi:

"Đã hết chảy máu chưa nội. Để con coi thử. À, hết rồi. Máu đã khô. Nhưng sao tay nội còn dính đầy máu thế này?"

Ông lão cuống quít định đưa tay trái lên xem, nhưng cu Tý đã chụp lấy bàn tay phải của ông. Cháu ông nói đúng. Mấy ngón tay phải của ông còn dính đầy máu. Từ nãy đến giờ mãi lo săn sóc cái chân, ông quên cái tay. Ông đưa tay lên chùi vào vạt trước, nhưng sợ giặt không đi, nên ngập ngừng dừng lại ở khoảng lưng chừng. Ông nhìn quanh quất. Cu Tý hốt hoảng:

"Tay của nội cũng bị thương nữa sao nội?"

Ông lão trấn an đứa bé:

"Không phải đâu. Đừng lo. Ông lấy tay nặn cho máu bầm chảy ra hết, nên bị dính phải. Để nội chùi sạch cho con coi. Không bị thương chỗ nào hết".

Ông lão vừa nói vừa tiếp tục tìm thứ gì chùi máu trên bàn tay. Chợt ông chú ý đến lớp rêu khô bám trên mặt đá vệ đường. Mặt đá quay về hướng bắc, và lớp rêu một mùa gió mưa năm trước bây giờ chỉ còn lại một mảng khô mầu thẫm. Ông lão đứng dậy, tiến về phía mặt rêu:

"Nội chùi vào đây cho sạch tay, rồi mình còn về".

Lớp rêu khô mịn như mặt nhung. Máu dính lên lớp rêu, để lộ lớp da nhăn chai đá trong lòng bàn tay lão tiều. Nhưng một vài cọng rêu héo bám theo bàn tay, nằm rải rác trên năm ngón gầy. Ông lão tìm khoảng rêu khác chùi mạnh tay một lần nữa, cẩn thận lau sạch máu bầm trên từng ngón đen đúa. Chính lúc đó ông mới chú ý dưới lớp rêu khô héo còn có một lớp rêu non mới nhú. Ông lão thích thú lấy ngón tay trỏ rẽ nhẹ khắp mặt rêu. Đâu đâu cũng có một tầng rêu xanh ẩn nấp, chờ sẵn sương đêm. Cu Tý giục:

"Đã xong chưa ông nội. Trời tối qua mương không kịp đâu".

Ông lão quay lại nhìn cháu, thấy mái tóc dài phủ gần kín vầng trán thơ ấu, trong khi đôi mắt cu Tý mở lớn một vùng trời hy vọng, mơ ước. Ông lão chợt nghĩ đến việc so sánh cọng rêu xanh và đôi mắt đen láy này, lòng xôn xao khác thường. Bấy giờ nắng chiếu qua ngọn cây, tung tăng bên bờ đá phía bên kia suối. Côn trùng chim chóc bắt đầu hoạt động trong các bụi rậm, nhộn nhịp ríu rít. Ông lão muốn ôm cháu vào lòng để tỏ niềm trìu mến, nhưng khi đưa hai bàn tay lên ông mới nhớ mình còn cầm viên đá xù xì ở tay trái. Cu Tý tò mò:

"Nội cũng lượm đá về chơi ô làng hở nội?"

Ông lão vội vã cải chính:

"Tao chừng này tuổi đầu mà còn chơi ô làng hay sao? Đem về cho mẹ tụi bay đằng thạp dưa cải".

Cu Tý cũng không vừa:

"Nội lầm rồi. Đằng dưa cải thì phải chọn mấy hòn đá tròn láng mới được. Hôm trước con cũng đem về một viên đá lớn cho mẹ, nhưng mẹ chê xù xì quăng đi. Mẹ muốn nhờ nội tìm cho một viên thật lớn, nhưng sợ nội yếu nội mệt..."

Lời đứa cháu làm ông lão suy nghĩ. Ừ, ông chưa yếu, nhưng không còn mạnh mẽ. Không biết bao giờ ông yếu đến độ không thể đi củi được nữa, và đến lúc đó, liệu gánh dưa cải của người dâu nhỏ ốm có đủ nuôi cả gia đình? Vợ ông mất từ lâu. Từ hồi thằng Đình mới có mười tuổi. Một cha một con sống âm thầm bên rẫy, ngày hai lần nhìn mặt trời mọc lên từ bên kia đỉnh Chóp Vàng và lặng mất đằng sau đỉnh Chóp Vung. Thằng Đình lớn lên như cây cối, cho đến lúc ông lão thấy phải dời nhà xuống đồng cho con lập gia đình, ông nhớ núi, ngày ngày ngồi bó gối nhìn ngọn cao sừng sững bên kia đồng lúa trì. Nhưng ông còn nhiều việc để làm cho tạm nguôi nhớ. Cu Tý ra đời. Rồi lần lượt con Lý, thằng Sư, thằng Mãnh, con Miên. Đình mạnh khỏe và tháo vát, ngược xuôi chu cấp cho cả gia đình đông đúc. Lúc Đình phải nhập ngũ, ông lão tưởng đời sống sẽ bị hoàn toàn đảo lộn, nhưng lúc nào Đình cũng lanh như con sóc. Nó xin làm việc ngay tại chi khu, gần gũi gia đình. Sự đảo lộn chỉ thật sự bắt đầu lúc cây cầu bắc ngang qua suối do Đình canh giữ bị giật sập. Ông lão không còn có quyền ngồi bó gối gửi nhớ nhung về đỉnh Chóp Vàng. Ông phải trở lại nghề cũ nuôi cháu. Ông biết sức khỏe mình ngày càng kém. Gối đã run, tay đã yếu. Mắt đã hấp hem trên bước chân nam chân xiêu khó nhọc. Nhưng ông lão còn rán được. Ông tin mình còn đủ sức kéo lết cuộc đời qua ngày đoạn tháng. Cơn ho trở mùa chưa tới, đó là một điềm lành.

Nghĩ tới đó, tự nhiên cổ ông ngứa, và dù cố gằn, cơn ho dữ dội vẫn ào ạt ập đến. Ông lão ngồi rũ bên gánh củi, gập người lại cố lấy hết ý chí cưỡng lại bệnh tật. Cu Tú quăng cả mấy viên cuội đẹp trên tay, chạy đến vuốt ngực ông:

"Nội ho trở lại phải không nội? Chắc sương chiều đã xuống rồi. Khí núi lạnh lắm. Mẹ nói hơi núi độc hơn cả gió bấc. Mình về nhanh lên nội".

Lời thằng bé giúp ông lão nhận thức được hoàn cảnh. Phải, có lẽ khí núi lạnh khi mặt trời đã lặn bên kia Chóp Vung làm cho phổi ông lão yếu đi. Phải về gấp, ông bước đến gần gánh củi, khom lưng kê vai vào đòn xóc. Ông lấy hết sức đứng dậy, nhưng sức lực ông tiêu tan đâu mất hết. Ông không nâng nổi gánh củi lên khỏi mặt đất. Thấy Cu Tý theo dõi mình, ông lão giả vờ bảo:

"Trời còn sáng mà cháu. Để ông ngồi một chút cho hạ đàm, rồi về cũng không muộn. Khi nào nắng hết chiếu trên đỉnh Chóp Vàng, mình mới sợ".

Cu Tý không biết nội quá yếu phải ngồi dưỡng thương, vui mừng đề nghị:

"Nếu thế nội chờ con đi nhặt lại mấy hòn cuội. Lúc nội ho rũ, con sợ quá, quăng đi mất hết".

"Ừ, con đi nhặt đi, nội chờ".

Lúc cu Tý chạy đi rồi, ông lão thử bậm môi nhấc gánh củi lần nữa. Nhưng nước mắt ông tự nhiên trào ra, đầu gối run lẩy bẩy.. Ông ngồi phệt lên mặt sỏi, lo lắng, rồi sợ hãi. Chắc cơn ho làm cho mình yếu đi, hoặc máu chảy nhiều làm cho gân cốt mềm lại. Hãy chờ một chốc nữa. Có tiếng sột soạt trong bụi rậm gần đó. Một con rắn mối ló đầu ra khỏi mớ cây dại thấp, dáo dác nhìn quanh, rồi đăm đăm nhìn ông lão. Bốn chân rắn bám vào mặt đất, trong khi cái đầu không thôi ngơ ngác. Ông lão nhặt một hòn đá nhỏ, quăng vào bụi rậm để gây tiếng động. Còn rắn sợ hãi quay đầu chạy trở lại đường cũ. Cu Tý nghe tiếng đá rơi, chạy lại hỏi:

"Cái gì vậy nội?"

"Không có gì đâu. Nội nhát con rắn mối".

"Nó đâu rồi, để con quăng cục đá cho bẹp đầu quách".

"Không nên. Nó chạy mất rồi. Bốn cái chân lăng quăng lê cái mình nặng. Tội nghiệp".

Cu Tý cười:

"Nó có bốn chân mà thua mình hai chân. Mình nhảy vài cái, là về tới nhà liền".

Câu nói của cu Tý làm ông lão suy nghĩ. Viên đá nằm lơ đễnh bất động trên lối đi. Mảng rêu bám vào vách núi, chờ gió chờ sương của mùa đông cũ. Con rắn mối khó nhọc bám chặt mặt đất lồi lõm. Gánh nặng cuộc đời đè nặng lên đôi vai, cũng dán chặt đời ông thân ông vào đồng lầy, sườn non, luống rẫy. Nhưng ông còn hai chân bước. Đầu gối ông chỉ cần khẽ gấp, là bàn chân có thể nhổ lên khỏi mặt đất. Và bàn chân này đặt xuống là bàn chân khác lại nhấc lên, bước tới. Đất không đủ sức chôn chặt chân ông. Và thân hình ông đứng thẳng, mắt ông nhìn xa. Ông chưa đến nỗi nào. Trừ khi cuộc đời và tháng năm bẻ cong lưng ông xuống, trừ khi cái chết ép sát thân ông vào mặt đất, ông vẫn còn có thể tiến tới. Ông còn đứng dậy được. Ông muốn tự đặt mình trước một sự đã rồi. Ông bảo cu Tý:

"Thôi. Ông cháu mình về".

Cu Tý đồng ý:

"Phải đó nội. Nắng đã hết chiếu trên đỉnh Chóp Vàng rồi".

Lão tiều khom người xuống, hai chân dạng ra theo thế tấn.. Ông nghiêng vai. Đôi vai hơi mỏi. Ông bậm môi nhấc gánh củi lên. Gánh củi không nhúc nhích. Ông lão hít mạnh một lần nữa, trí nghĩ đến cái nhục của loài bò sát. Miệng ông bảo cháu:

"Nó bốn chân, nhất định phải thua mình hai chân. Mình vươn vai một cái, đã đứng thẳng lên ngay".

Trong khi lấy gân đứng dậy, ông lão đứng dậy được. Gánh củi hơi chòng chành. Nhưng tay ông lão kịp giữ lại cho nguyên thế thăng bằng.

Rồi cu Tý đi trước, bước chân nhảy nhót như chân sóc. Và lão tiều theo sau, bước chân đằm vững theo nhịp thở. Hai ông cháu về tới nhà, thì trời mới tối hẳn.

Ghi chú: Vì lý do kĩ thuật, truyện Đêm hoang (giữa truyện Nước cạn, hoa lauTiếng đàn thầm) không in được nên số trang không liên tục, mong độc giả thông cảm – Trí Đăng.

Nguồn: Bão rớt, Nguyễn Mộng Giác, in tại Trí Đăng, 21/1/1 Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn 3, số lượng ấn bản 1500 cuốn. Giấy phép xuất bản số 2267/PTUDV/KBCNT/ KSALP cấp ngày 25-6-1973. Phát hành ngày 15-9-1973. Bản điện tử do talawas thực hiện.